TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 69/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2020 VỀ LY HÔN
Ngày 11 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 268/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020 về việc “Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2020/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1984; địa chỉ: ấp P, xã Phước Tỉnh, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Văn B, sinh năm 1968; Địa chỉ: khu phố P, thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 16/9/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:
Bà và ông Lê Văn B tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ ngày 23/3/2014. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi cưới nhau, ông bà chung sống tại khu phố Phước Điền, thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian chung sống, ông bà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm về mọi mặt trong cuộc sống dẫn đến thường xuyên xảy ra tranh cãi dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Từ năm 2016 đến nay vợ chồng đã sống ly thân.
Nay nhận thấy giữa bà và ông B không còn quan tâm tới nhau, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được, nên đề nghị được ly hôn với ông B.
Về con chung: có 01 con chung tên Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 21/6/2010 đang sống cùng ông B. Theo nguyện vọng cũng như để đảm bảo cuộc sống ổn định của con chung, bà D đồng ý tiếp tục giao cháu N cho ông B trực tiếp nuôi dưỡng; bà không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Lê Văn B:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông B được biết. Trong quá trình giải quyết vụ án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông B vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như không thể tiến hành hòa giải được.
- Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã tiến hành đúng các quy định về thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị vẫn tiến hành xét xử vụ án theo luật định.
Về nội D vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu của bà Nguyễn Thị D xin ly hôn với ông Lê Văn B là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà D được ly hôn với ông B; Về con chung: Bà D đề nghị giao con chung cho ông B trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến tuổi trưởng thành và không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Bà D phải chịu án phí theo qui định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Nguyễn Thị D yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn B, bị đơn đang cư trú tại huyện Đất Đỏ, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông B đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo luật định.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D và ông Lê Văn B tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 83, ngày 23/3/2014 của Ủy ban nhân dân thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Theo lời trình bày của bà D thì trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, ông B không quan tâm gia đình, vợ con vì vậy mục đích hôn nhân không đạt được nên không thể duy trì cuộc hôn nhân này được nữa.
Quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông B, tại thông báo có nêu rõ yêu cầu khởi kiện và những tài liệu chứng cứ mà bà D đã giao nộp cho Tòa án, đồng thời đã nhiều lần triệu tập ông B đến Tòa án để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà D; cũng như thông báo để ông B tham gia các phiên hòa giải nhưng ông đều vắng mặt không có lý do. Như vậy lời khai của bà D về việc gia đình mâu thuẫn, không có hạnh phúc là có cơ sở. Việc ông B không đến Tòa án để làm việc, để tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa sơ thẩm đã chứng minh ông không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D.
[2.2] Về con chung: có 01 con chung là Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 21/6/2010 đang do ông B trực tiếp nuôi dưỡng nên chấp nhận yêu cầu của bà D để ông B tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến tuổi trưởng thành và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con cũng như phù hợp với nguyện vọng của con chung theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D không cấp dưỡng nuôi con chung.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
[2.5] Về án phí: Bà D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Lê Văn B.
2. Về con chung: Giao con chung tên Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 21/6/2010 cho ông Lê Văn B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn đến khi trưởng thành (18 tuổi), bà D không cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, bà D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.
Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị D phải nộp 300.000đ (B trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số TU/2020/0000919 ngày 16/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà D đã nộp xong án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết.
Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 11/12/2020 về ly hôn
Số hiệu: | 69/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về