Bản án 69/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G. T, tỉnh N. Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

N. V. T; sinh ngày 05/11/1991, tại xã G. X, huyện G. T, tỉnh N. Đ; nơi cư trú: Xóm X. C, xã G. X, huyện G. T, tỉnh N. Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1966; có vợ là: Cổ Thị N, sinh năm 1990; và có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016.Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện G. T, tỉnh N. Đ xử phạt 12 tháng tù giam về tội “ Trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 25/6/2015; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày18/7/2019 cho đến nay; hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện G. T “có mặt”.

Bị hại: Chị Phạm T; Sinh năm 1987. Địa chỉ: Xóm 14 xã G, huyện G. T, tỉnh N. Đ “vắng mặt”.

Người làm chứng:

- Bà Nguyễn T; sinh năm 1966; Địa chỉ: Xóm X. C, xã G. X, huyện G. T, tỉnh N. Đ “vắng mặt”.

- Chị Trần T; Sinh năm 1986; Địa chỉ: Xóm 14 xã G, huyện G. T “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 03 giờ ngày 18/7/2019, đi bộ một mình từ nhà ra đê biển khu vực cảng cá xã Giao H, huyện G. T mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi, T mang theo 01 chiếc thìa bằng inox dài khoảng 20cm, được mài nhọn phần cán thìa, nhằm mục đích để phá khóa xe máy. Khi đến khu vực cảng cá xã Giao Hải, T phát hiện thấy 01 chiếc xe máy Wave anpha màu sơn đen bạc, BKS:18G1-15776 của chị Phạm Thị C đang dựng trên mặt đê. Quan sát thấy không có người trông coi, T lại gần dùng chiếc thìa mang theo cắm đầu đã mài nhọn vào ổ khóa điện để mở khóa sau đó điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được về nhà. Trên đường về, T tháo 02 chiếc gương chiếu hậu của xe cùng chiếc thìa ném xuống sông. Khi về nhà, T dùng tay giật bộ yếm, hộp xích và biển kiểm soát 18G1-15776 của xe ra, rồi lắp BKS: 18S4-2526 có sẵn ở nhà T vào chiếc xe trộm cắp được của chị C nhằm tránh bị phát hiện. Đến sáng cùng ngày, T chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện G. T phát hiện, bắt giữ, thu giữ tại nhà 01 xe máy Wave anpha màu sơn đen bạc có gắn BKS: 18S4-2526, 01 bộ yếm xe màu đen đã vỡ, 01 bộ hộp xích, 01 BKS: 18G1-15776.

Ngày 19/7/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện G. T đã định giá và xác định: “01 xe máy mang nhãn hiệu HONDA kiểu dáng Wave anpha màu sơn đen - bạc, BKS: 18G1-15776 tại thời điểm định giá có trị giá 5.400.000 đồng”.

Ti bản cáo trạng số: 70/CTR ngày 21/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G. T đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện G. T thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên bản cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt: Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 BKS: 18S4-2526 thu giữ của .

Ti phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G. T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G. T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ của vụ án có đủ cơ sở xác định: Khoảng hơn 03 giờ ngày 18/7/2019, phát hiện chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA Wave anpha BKS: 18G1-15776 trị giá 5.400.000 đồng của chị Phạm Thị C đang dựng trên mặt đê biển khu vực cảng cá xã Giao H, huyện G. T, tỉnh N. Đ không có người trông coi, T đã dùng chiếc thìa inox dài khoảng 20cm, được mài nhọn phần cán thìa cắm đầu đã mài nhọn vào ổ khóa điện để mở khóa sau đó điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được về nhà. T chưa kịp tiêu thụ chiếc xe trên thì bị Công an huyện G. T, tỉnh N. Đ phát hiện, bắt giữ.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện G. T truy tố về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã từng phải chấp hành hình phạt tù về “Trộm cắp tài sản”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản dẫn đến phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị C đã được nhận lại 01 xe máy nhãn hiệu Honda kiểu dáng Wave anpha cùng 01 bộ yếm màu đen đã vỡ, 01 hộp xích, 01 BKS 18G1-15776 thu giữ tại nhà T; đối với 02 chiếc gương chiếu hậu của xe không thu giữ được. Nay chị C không có yêu cầu gì nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Đối với 01 chiếc thìa bằng kim loại dài 20cm là công cụ T dùng để mở khóa xe, T khai đã vứt xuống sông, hiện cơ quan điều tra không thu giữ được nên vấn đề xử lý không đặt ra.

Đi với 01 BKS: 18S4-2526 thu giữ của , quá trình điều tra không xác định được chiếc xe máy có BKS như trên hiện ở đâu, nên tịch thu BKS: 18S4-2526 cho tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 BKS: 18S4-2526 thu giữ của (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 22/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G. T).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về