TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 69/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH D VÀ CHỊ H
Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh D, sinh năm 1986.
Địa chỉ: xóm 2, thôn B, xã A, huyện K, tỉnh Thái Bình.
Bị đơn: Chị Ngô Hải H, sinh năm 1998.
Hộ khẩu thường trú tại: xóm 2, thôn B, xã A, huyện K, tỉnh Thái Bình.
(Anh Dục, chị Hà đều có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Minh D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Ngô Hải H đã tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, đã tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống ngày 06/8/2014, đến ngày 26/02/2016 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện K, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hạnh phúc cùng gia đình nhà anh tại xóm 2, thôn B, xã A, huyện K, tỉnh Thái Bình. Nhưng đến tối ngày 01/8/2019, khi cả gia đình đang ngủ thì chị H trèo tường trốn ra ngoài đi với trai, không nói gì với ai. Đến khi trời mưa to, bố anh dậy đóng cửa thì phát hiện chị H không có nhà, cả nhà dậy đi tìm chị H cũng không thấy, điện thoại không gọi được. Sáng ngày 02/8/2019, chị H về nhà, biết hành vi của mình bị phát hiện nên đã thú nhận đi ngoại tình. Tuy nhiên, anh và gia đình vẫn tha thứ cho chị H để vợ chồng tiếp tục chung sống, nuôi dạy các con, chị H cũng đã xin lỗi anh. Đến ngày 11/8/2019, chị H tự ý thu dọn quần áo, bỏ đi mà không xin phép anh và bố mẹ anh. Hiện nay anh xác định vợ chồng không còn tình cảm, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho anh ly hôn chị Ngô Hải H.
Về con chung: Anh và chị H có 02 con chung là Nguyễn Thu H, sinh ngày 04/10/2015 và Nguyễn Thanh D, sinh ngày 16/7/2017. Cả hai cháu hiện nay đang sống cùng anh và bố mẹ đẻ anh tại xóm 2, thôn B, xã A. Ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 2 con chung vì các con được chăm sóc chu đáo, đi học ở trường mầm non xã A, hàng ngày mẹ anh đưa đón các con đi học và hỗ trợ anh chăm sóc các con. Còn chị H không có việc làm, không có nơi ở ổn định, không có tài sản riêng cũng không có thu nhập nên không có đủ điều kiện để chăm sóc con chung. Từ khi bỏ đi đến nay, chị H không về thăm con, không bao giờ mua sữa bánh, quần áo mới cho các con, không có trách nhiệm với con. Vì vậy, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu chị H góp cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Anh D, chị H không có tài sản chung, không có nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.
Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn chị Ngô Hải H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị nhất trí với phần trình bày của anh D về hoàn cảnh, điều kiện, thời gian kết hôn của vợ chồng. Sau khi kết hôn, chị và anh D chung sống với gia đình nhà anh D, cuộc sống chung không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi vã do vợ chồng tính tình không hợp. Khoảng đầu tháng 8/2019, sau một lần to tiếng cãi vã, trong lúc nóng giận chị đã bỏ nhà ra ở riêng. Anh D và gia đình không ai đến tìm chị, khuyên nhủ chị trở về gia đình, không quan tâm đến chị, nên từ đó đến nay chị và anh D sống ly thân. Hiện nay chị xác định không còn tình cảm, không có khả năng đoàn tụ cùng chung sống, chị đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Minh D.
Về con chung: Chị H xác định vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Thu H, sinh ngày 04/10/2015 và Nguyễn Thanh D, sinh ngày 16/7/2017 như anh D trình bày. Hiện nay cả hai con đang sống cùng anh D. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu anh D góp cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp chị không được nuôi cả hai con chung, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thanh D, anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu H, hai bên không phải góp cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về tài sản chung: Chị và anh D không có tài sản chung, không có nợ chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật: quá trình thực hiện tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng đảm bảo đúng pháp luật và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho anh Nguyễn Minh D được ly hôn chị Ngô Hải H; về nuôi con chung: giao cho anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thanh D; Nguyễn Thu H, chấp nhận việc anh D không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con cùng anh Dục. Chị H có quyền thăm nom chăm sóc con chung. Về tài sản chung, do các đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Minh D khởi kiện xin ly hôn chị Ngô Hải H, chị H đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung, xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Về hôn nhân: Anh Dục và chị Hà đã đăng ký kết hôn ngày 26/02/2016 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện K, tỉnh Thái Bình, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, anh D và chị H xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là đêm ngày 01/8/2019 chị H trèo tường trốn ra ngoài đi quan hệ bất chính với nhiều người khác và chị H đã thú nhận đi ngoại tình. Ngày 11/8/2019, chị H tự ý thu dọn quần áo, bỏ đi từ đó đến nay. Anh D giao nộp cho Tòa án bản phô tô bản kiểm điểm do chị H có viết, nhận lỗi về việc quan hệ tình dục tại nhà nghỉ. Hiện nay, anh D và chị H đều xác định vợ chồng không còn tình cảm, không có khả năng đoàn tụ cùng chung sống. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh D và chị H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tại phiên hòa giải, anh D chị H đều nhất trí ly hôn. Việc thuận tình ly hôn của anh D chị H là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, cần được chấp nhận.
[3] Về nuôi con chung: Anh D, chị H có 02 con chung là Nguyễn Thu H, sinh ngày 04/10/2015 và Nguyễn Thanh D, sinh ngày 16/7/2017. Cả anh D và chị H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng. Anh D giao nộp bảng lương hiện đang là công nhân tại công ty Trách nhiệm hữu hạn Da Giầy xuất khẩu Thành Phát mức thu nhập trung bình 6.800.000 đồng - 7.000.000 đồng/tháng có xác nhận của Công ty và anh D có nơi ở ổn định tại thôn B, xã A, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, anh D và mẹ đẻ anh D chăm sóc các con H, con D điều kiện ăn ở học tập tốt. Tại phiên tòa chị H khai đang làm quản lý tại nhà hàng tại thôn Đ, xã H, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thu nhập trung bình là 8.000.000 - 9.000.000 đồng/tháng. Tòa án đã thông báo chị H nộp tài liệu chứng cứ chứng minh mức thu nhập, chỗ ở hiện nay của chị có xác nhận của nơi làm việc và nơi cư trú, nhưng chị H không cung cấp được. Tòa án thu thập chứng cứ xác minh với Uỷ ban nhân dân xã A, địa phương cung cấp hiện chị H không có mặt tại địa phương, trong thời gian tháng 8/2019 có biểu hiện tụ tập cùng một số người khác sử dụng, đưa chất cấm vào cơ thể. Luật Hôn nhân và gia đình Điều 81 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”. Nhưng xét thấy, chị H không cung cấp được mức thu nhập và chỗ ăn ở ổn định để làm căn cứ giao con. Vì vậy, cần giao cho anh Dục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thu H, Nguyễn Thanh D, chấp nhận việc anh D không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con cùng anh D. Chị H có quyền thăm nom chăm sóc con chung, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi cần thiết.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh D và chị H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Anh Nguyễn Minh D là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Minh D và chị Ngô Hải H được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Minh D được ly hôn chị Ngô Hải H.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Thu H, sinh ngày 04/10/2015 và Nguyễn Thanh D, sinh ngày 16/7/2017 cho anh Nguyễn Minh D trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận việc anh Dục không yêu cầu chị Hà cấp dưỡng nuôi con cùng anh. Chị H có quyền thăm nom chăn sóc con chung và yêu càu thay đổi người trực tiếp nuôi con khi cần thiết.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Anh Nguyễn Minh D phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển 300.000 đồng anh D đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình theo Biên lai số 0001422 ngày 03 tháng 9 năm 2019 sang thi hành án phí. Anh D đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Minh D, chị Ngô Hải H có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn giữa anh D và chị H
Số hiệu: | 69/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về