Bản án 69/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 69/2018/HS-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh P (tên gọi khác: B), sinh năm 1987

Nơi sinh: Bình Thuận. Nghề nghiệp: Không.

Nơi ĐKNKTT: Khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông Nguyễn B, sinh năm 1963 và bà Võ Thị H, sinh năm 1963; Gia đình có 04 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ ba; Vợ, con: chưa có.

Tiền án: Ngày 28/9/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 177/2011/HSST, đến ngày 04/02/2016 chấp hành xong hình phạt tù theo giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 212/GCN.

Tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt ngày 13/6/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thị xã L; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Võ Thị H, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. Có mặt

* Người làm chứng:

1. Ông Phạm Công H, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Khu phố 11, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

2. Ông Trần Thanh L, sinh năm 1968; Nơi cư trú: Khu phố 8, phường B, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 13/6/2018, tại khu phố 6, phường B, thị xã L, Công an phường B trong khi đang đi tuần tra đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Minh P đang cầm trên tay 01 bịch ny lon được hàn kín hai đầu bên trong có chứa 03 cục được bao bằng băng keo, bên trong có chứa chất bột màu trắng, ngoài ra còn thu giữ của P 01 kim tiêm đã qua sử dụng.

Theo như lời trình bày của bị cáo Nguyễn Minh P thì bị cáo là đối tượng nghiện Heroin từ năm 2017. Khoảng 10 giờ ngày 13/6/2018, bị cáo mượn xe mô tô BKS 86C1-26148 của mẹ là bà Võ Thị H nói là đi công việc, rồi điều khiển vào thị xã L để mua ma túy sử dụng. Khi đến bãi Sò thuộc khu phố 11, phường B thì P gặp một người đàn ông tên Trường (không rõ tên tuổi, địa chỉ), bị cáo hỏi mua ma túy với giá 1.000.000 đồng, sau đó người đàn ông này đưa cho bị cáo một bịch ma túy, bị cáo cầm bịch ma túy ở tay trái rồi điều khiển xe đi về. Khi vừa đi được một đoạn thì bị công an tuần tra tại khu vực phát hiện, bị cáo bỏ chạy và ném ném bịch ma túy xuống đất, nhưng đã bị Công an bắt ngay sau đó, thu giữ tang vật cùng 01 kim tiêm đã qua sử dụng, số tiền 1.300.000 đồng, 03 điện thoại di động và 01 xe mô tô.

Theo như lời trình bày của người làm chứng là ông Phạm Công H thì ông là bảo vệ dân phố. Khoảng 12 giờ 30 Pt ngày 13/6/2018, ông cùng công an phường B đi tuần tra, khi đến khu phố 6, phường B, thị xã L thì phát hiện nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn lái xe bỏ chạy vào khu phố 8, phường B. Trong khi bỏ chạy, nam thanh niên vứt xuống đường một bịch nilon. Sau đó, tổ công tác tiến hành thu giữ tang vật trên và tiếp tục truy đuổi nam thanh niên. Khi đối tượng bị bắt đã khai tên là Nguyễn Minh P, sinh năm 1987 trú ở Khu phố 4, phường Đ, thành phố P và bịch ny lon mà P ném xuống đường là Heroin mà P vừa mua về để sử dụng.

Theo như lời trình bày của người làm chứng là ông Trần Thanh L thì ông là công dân sinh sống tại khu phố 8, phường B. Vào khoảng 12 giờ 30 Pt ngày 13/6/2018, khi ông đang trên đường về nhà thì chứng kiến công an đang truy đuổi một nam thanh niên chạy xe máy. Ông chạy theo xem thì thấy nam thanh niên này vứt xuống đường một bịch nilon rồi tiếp tục bỏ chạy. Sau đó, đối tượng bị công an bắt giữ và đưa đến nơi đã vứt bịch nilon thì nghe đối tượng khai tên Nguyễn Minh P, sinh năm 1987 trú ở Khu phố 4, phường Đ, thành phố P và khai bịch nilon P vứt xuống đường là ma túy mua được ở khu Tân Long với giá 1.000.000 đồng.

Theo như lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Võ Thị H thì bà là mẹ của bị cáo P, xe mô tô BKS 86C1-26148 là tài sản của bà, do bà đứng tên chủ sở hữu. Ngày 13/6/2018, bị cáo P mượn xe bà nói đi công việc. Sau đó thì bà được công an thông báo là P đã dùng xe của bà để đi mua ma túy.

* Tại bản kết luận giám định số 550/KLGĐ-PC54 ngày 18/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận thể hiện:

- Đối tượng giám định: 01 (một) phong bì được niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Minh P và hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thị xã L. Trong phong bì có 01 (một) gói nylon được hàn kín hai đầu, trong gói nylon có 03 (ba) cục (gồm 02 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu đen và 01 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu vàng và màu đen) chứa chất màu trắng bên trong (ký hiệu M).

- Kết luận giám định: Mẫu M gửi đến giám định có khối lượng 3,5635 gam; là Heroine.

- Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 01 (một) gói nylon và 03 (ba) cục (gồm 02 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu đen và 01 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu vàng và màu đen) đã cắt lấy mẫu và 1,1327 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 550, có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu.

Vật chứng vụ án bao gồm: 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh và 01 điện thoại di động hiệu Wing màu xanh trắng; 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen BKS 86C1-26148; số tiền 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm ngàn đồng); 01 (một) bịch nylon màu trắng trong suốt hàn kín 02 đầu chứa 03 (ba) cục (gồm 02 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu đen và 01 cục bao bọc bên ngoài bằng băng keo màu vàng và màu đen) đã cắt lấy mẫu và 1,1327 gam mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 550; 01 kim tiêm đã qua sử dụng.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 04/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Minh P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh P, phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Nguyễn Minh P, mức án từ: 03 đến 04 năm tù

Biện pháp tư pháp: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong số 550, ngày 18/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 kim tiêm đã qua sử dụng.

- Ý kiến của bị cáo Nguyễn Minh P: Thừa nhận hành vi tàng trữ ma túy và đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Võ Thị H: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Nguyễn Minh P nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt những người làm chứng Phạm Công H và Trần Thanh L. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.

Xét thấy, việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, trong trường hợp cần thiết, chủ tọa phiên tòa có thể công bố lời khai của họ trong phần tranh tụng tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

 [2] Về nội dung: xét thấy lời khai của bị cáo Nguyễn Minh P khai nhận tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận: Vào khoảng 12 giờ 30 Pt ngày 13/6/2018, tại khu phố 6, phường B, thị xã L, Công an phường B trong khi đang đi tuần tra đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Minh P đang có hành vi tàng trữ 3,5635 gam; là Heroine với mục đích để sử dụng. Nhưng, bị cáo P không xuất trình được Giấy phép hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý. Vì vậy, hành vi tàng trữ 3,5635 gam Heroine của bị cáo là trái phép.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm…

a)…;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”

Đối chiếu với quy định trên, việc bị cáo P có hành vi tàng trữ trái phép 3,5635 gam, là Heroine với mục đích để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 .

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh P về tội danh, điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

 [3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Mặt khác, đối với người sử dụng: Ma túy làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại, dùng ma tuý quá liều có thể dẫn đến cái chết và làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình; đối với xã hội: Ma túy gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: Lừa đảo, trộm cắp, giết người,.. làm tăng chi phí ngân sách xã hội cho các hoạt động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma tuý đem lại, ma tuý còn là nguồn gốc, là điều kiện nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS. Do đó, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và gây mất trật tự trị an tại địa phương.

 [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 28/9/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 04/02/2016, chấp hành xong hình phạt tù, tính đến ngày 13/6/2018 thì chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo là thuộc trường hợp “tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn (Mẹ đau yếu, em trai bị bệnh tâm thần, cha bỏ đi), nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [5] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng L trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo nhận thức được Heroine là chất gây nghiện, hủy hoại sức khỏe, Nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ... nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân. Hơn nữa, bị cáo đã có 01 lần bị kết án, bị xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thế nhưng sau khi chấp hành án, trở về địa phương, bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học, nâng cao ý thức pháp luật mà còn tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, đủ để bị cáo học tập, cải tạo trở thành công dân có ích, nhằm răn đe, gíao dục và phòng ngừa chung.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cầm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó Hội đồng xét sử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [7] Về xử lý vật chứng: Đối với 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh và 01 điện thoại di động hiệu Wing màu xanh trắng; 01 xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ đen BKS 86C1-26148; số tiền 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm ngàn đồng), qua điều tra đã làm rõ là những vật, tài sản không liên quan đến tội phạm, hiện đã được trả lại cho bà Võ Thị H theo biên bản về việc trả lại lại đồ vật, tài liệu ngày 28/8/2018 nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với phong bì niêm phong số 550, ngày 18/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận và 01 kim tiêm đã qua sử dụng là vật Nhà nước cấm tàng trữ và là vật không có giá trị, cần tịch thu tiêu hủy.

 [8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh P 03 (Ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 13/6/2018.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 550, ngày 18/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận và 01 kim tiêm đã qua sử dụng. Hiện đang quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/9/2018 giữa Cơ quan CSĐT – Công an thị xã La Gi với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về