Bản án 69/2018/HNGĐ-ST ngày 19/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 69/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 19 tháng 7 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2018/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Hương T, sinh năm 1991.

Địa chỉ:, ấp C, xã s, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1990.

Địa chỉ thường trú: xóm C, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Địa chỉ tạm trú: ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Chị Ngô Thị Hương T có mặt; anh Nguyễn Văn H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 28 tháng 02 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Ngô Thị Hương T trình bày: trên cơ sở tự nguyện, chị vàanh Nguyễn Văn H tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình vào ngày 24 tháng 9 năm 2015. Đây là hôn nhân lần đầu của cả hai.

Cuộc sống chung của anh chị không hạnh phúc do vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh Nguyễn Văn H hay có những lời nói xúc phạm đến bố mẹ của chị, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh Hưng vẫn không sửa đổi. Chị và anh Nguyễn Văn H không còn chung sống với nhau từ tháng 01 năm 2018. Đến nay, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, tình cảm không còn, hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: chị và anh Nguyễn Văn H có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngô N, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2016. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Chị không yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Nguyễn Văn H vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó không có lời khai.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vàsự chấp hành pháp luật của các đương sự cơ bản đúng pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: về quan hệ hôn nhân, cho chị Ngô Thị Hương T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H; về con chung, giao cho chị Ngô Thị Hương T nuôi dưỡng; tạm miễn khoản cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Văn H; về tài sản chung vànợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ pháp luật: chị Ngô Thị Hương T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Văn H có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm C, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình nhưng đăng ký tạm trú tại ấp C, xã S, huyện Xuân Lộc và yêu cầu nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toàán nhân dân huyện Xuân Lộc.

 [2] Về tư cách tham gia tố tụng: chị Ngô Thị Hương T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Văn H nên chị Ngô Thị Hương T là nguyên đơn, anh Nguyễn Văn H là bị đơn.

 [3] Về thủ tục tố tụng: anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do, nên xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn H tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [4] Về quan hệ hôn nhân: chị NgôThị Hương T và anh Nguyễn Văn H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Ngô Thị Hương T cho rằng vợ chồng mâu thuẫn là do thường xuyên cãi nhau, anh Nguyễn Văn H cónhững lời nói xúc phạm đến bố mẹ của chị, hiện nay anh chị không còn sống chung với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Nguyễn Văn H nhiều lần nhưng anh Nguyễn Văn H vẫn không có mặt để làm việc và hòa giải hàn gắn tình cảm. Qua xem xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập và được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy lời trình bày của chị Ngô Thị Hương T phù hợp với nội dung của biên bản xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân của anh chị. Như vậy đã đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị Ngô Thị Hương T và anh Nguyễn Văn H mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nên chấp nhận cho chị Ngô Thị Hương T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H là phù hợp.

 [5] Về con chung: chị Ngô Thị Hương T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Ngô N, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2016. Xét thấy, cháu Nguyễn Ngô N còn nhỏ và hiện đang sống cùng chị Ngô Thị Hương T, quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn H không có lời khai nêu ý kiến về việc nuôi con chung khi ly hôn. Vìvậy, nên giao con chung cho chị Ngô Thị Hương T tiếp tục nuôi dưỡng làphù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

 [6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị Ngô Thị Hương T không yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

 [7] Về tài sản chung vànợ chung: chị Ngô Thị Hương T trình bày không có nên không xem xét.

 [8] Về án phí: chị NgôThị Hương T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

 [9] Xét thấy, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý vàsử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Ngô Thị Hương T được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

- Về con chung: giao cháu Nguyễn Ngô N, sinh ngày 01 tháng 7 năm 2016 cho chị Ngô Thị Hương T trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Văn H.

Anh Nguyễn Văn H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung. Khi cần thiết, chị Ngô Thị Hương T vàanh Nguyễn Văn H được quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung vànợ chung: không xem xét giải quyết.

- Về án phí: chị Ngô Thị Hương T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 008212 ngày 09 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc, chị Ngô Thị Hương T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Ngô Thị Hương T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2018/HNGĐ-ST ngày 19/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:69/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về