Bản án 687/2019/HSPT ngày 05/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 687/2019/HSPT NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 357/2019/TLPT-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Trương Minh L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HS-ST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố N.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trương Minh L; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1963; nơi ĐKHKTT: Tổ 3, phường G, quận B, thành phố N; chỗ ở: P605 CT1B KĐT Tân Tây Đô, xã L, huyện P, thành phố N; nghề Nghiệp: nguyên Giám đốc Công ty Cổ phần xây lắp và thi công cơ giới 10.37; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông Trương Huy H (Liệt sỹ chống Mỹ) và bà Nguyễn Thị X; có vợ là Nông Thị Minh H và có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015; tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 1766 ngày 26/11/2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xử phạt bị cáo L 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Tham ô tài sản”. Bị cáo phải bồi thường 85.108.740 đồng cho Trường công nhân kỹ thuật thuộc Đại học Thái Nguyên và phải nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.150.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Xác minh thi hành án: bị cáo đã nộp các khoản trên, (Đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt truy nã để tạm giam từ ngày 31/5/2018 đến 24/9/2018. Bị cáo bị bắt lại ngày 22/10/2019 để xét xử phúc thẩm; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đỗ Văn Hùng - Văn phòng luật sư 559 và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại không có kháng cáo, Tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 07/11/2016, chị Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1967; HKTT: số 328 Đê La Thành, phường D, quận Đ, thành phố N gửi đơn đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm tố giác Trương Minh L, sinh năm: 1963, trú tại: P605 chung cư Tân Tây Đô, huyện P, thành phố N chiếm đoạt của chị 1 tỷ đồng thông qua việc hợp tác đầu tư, kinh doanh dự án án tổ hợp văn phòng, thương mại, dịch vụ tại lô đất ký hiệu 11.E6 có diện tích 7636m2 tại đường Phạm Hùng, thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy, Hà Nội. Sau đó L không thực hiện như cam kết rồi bỏ trốn.

Chị Nguyễn Thanh T giao nộp cho cơ quan điều tra:

- 01 chứng từ giao dịch chuyển khoản ngày 16/10/2015 (bản photocopy);

- 01 card vidit mang tên Trương Minh L - Chủ tịch HĐQT Công ty xây lắp và thi công cơ giới 10.37 thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng - Bộ Xây dựng; địa chỉ: Tầng 4, Tòa nhà 831, đường Giải Phóng, Hoàng Mai, Hà Nội.

- 01 Bản mẫu Hợp đồng hợp tác đầu tư và kinh doanh giữa Bên A: Tổng công ty cơ khí xây dựng - Công ty TNHH MTV, người đại diện: Ông Dương Văn Hồng - Tổng giám đốc và bên B: Để trống các mục (bản photocopy).

- Công văn số 1694 ngày 25/9/2007 của Tổng công ty cơ khí xây dựng về việc nộp tiền đặt cọc sử dụng đất (bản photocopy).

- Quyết định số 1987 ngày 11/11/2008 của UBND thành phố N về việc chấp thuận nghiên cứu lập dự án xây dựng trụ sở văn phòng tại Khu đô thị mới Cầu Giấy (bản photocopy).

- Công văn số 263 ngày 07/9/2012 của Cục tác chiến - Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam về việc chấp thuận độ cao tĩnh không xây dựng công trình (bản photo copy).

- Công văn số 1420 ngày 17/5/2013 của Sở quy hoạch kiến trúc thành phố N về việc hoàn thiện quy hoạch mặt bằng lô đất 11.E6 (bản photocopy).

- Công văn số 1183 ngày 22/12/2008 của Sở quy hoạch kiến trúc Hà Nội về việc thông báo chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc ở Khu đô thị mới Cầu Giấy (bản photocopy) (BL 101-130). Quá trình điều tra xác định:

Do có nhu cầu đầu tư kinh doanh vào các dự án đất, tháng 9/2015 chị Nguyễn Thanh T tìm hiểu và được biết Tổng công ty A đang triển khai mời gọi nhà đầu tư vào Dự án tổ hợp văn phòng, thương mại, dịch vụ tại lô đất ký hiệu 11.E6 có diện tích 76m2 tại đường Phạm Hùng, thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy, Hà Nội. Vì năm 2008 chị T quen Trương Minh L, thời gian đó L là Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần cơ khí xây dựng số 10 (gọi tắt là Công ty COMA 10) nên chị T rủ Phương Thị Bách Lê, sinh năm: 1970, HKTT: số 11, tổ 15, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội rồi gọi điện thoại cho L để tìm hiểu dự án nêu trên. Mặc dù tháng 7/2015 Trương Minh L không còn giữ chức vụ Phó Tổng giám đốc và cũng không còn là Ủy viên Hội đồng quản trị của Công ty COMA 10 nữa, nhưng L vẫn giới thiệu với chị T và chị L: L là thành viên của Hội đồng quản trị, Phó Tổng giám đốc công ty COMA10 và được Ban giám đốc ủy quyền đứng ra giao dịch hợp tác kinh doanh dự án 11E6 Phạm Hùng của Tổng công ty A và thỏa thuận: chị T và chị L tìm đối tác đầu tư vào dự án, sau khi có đối tác thì L là người sẽ làm việc và giới thiệu đối tác với Tổng công ty A để đầu tư vào dự án. Sau khi gặp chị T và chị L thì L đã đến Tổng công ty A gặp ông Phạm Việt Hùng - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty A để tìm hiểu về dự án 11E6 Phạm Hùng, ông H cho biết: Tổng công ty A có chủ trương kêu gọi các nhà đầu tư vào dự án đồng thời cung cấp cho L: 01 bộ hồ sơ pháp lý về dự án 11.E6 Phạm Hùng, 01 bản mẫu Hợp đồng hợp tác đầu tư về dự án 1LE6 để L giới thiệu khách hàng là các nhà đầu tư cho Tổng công ty A. L đã phô tô thành 02 bộ hồ sơ về dự án trên đưa cho chị T, chị L cùng 01 bản mẫu Hợp đồng hợp tác đầu tư và kinh doanh. Sau đó thông qua ông Đoàn Xuân Trường - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty COMA 10, L dẫn Lê đến trụ sở Tổng công ty A gặp ông Dương Văn Hồng - Tổng giám đốc Tổng công ty A và ông Phạm Việt Hùng - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty A được biết muốn tham gia đầu tư vào dự án thì phải có năng lực tài chính. Do không gọi được các nhà đầu tư nên chị T và chị L không đủ năng lực tài chính để tham gia đầu tư vào dự án trên. Để lấy được tiền của chị T và chị L, đầu tháng 10/2015, L tự nghĩ ra việc “mua quyền giao dịch dự án” (tức là được đại diện cho Tổng công ty đứng ra giao dịch, kêu gọi các nhà đầu tư vào dự án trên) và rủ chị T, chị L mỗi người góp một tỷ đồng để “mua quyền giao dịch dự án” nhưng do chị L không có tiền nên không tham gia. Sau đó, L rủ chị T góp 01 tỷ đồng và L đưa ra thông tin gian dối là: 01 tỷ đồng của chị T sẽ được L thay mặt công ty COMA 10 nhận và nộp vào Tổng công ty A để đặt cọc mua quyền giao dịch dự án, còn tiền của L sẽ được chi phí vào việc “quan hệ” với các lãnh đạo của Tổng công ty A để có được quyền trên. Chị T đồng ý nhưng với điều kiện: sau 03 tháng nếu giao dịch không thành công thì L phải rút tiền ra trả chị T, L nhất trí điều kiện chị T đưa ra. Do tin tưởng những thông tin L đưa ra là có thật nên ngày 16/10/2015, chị T đã chuyển khoản 01 tỷ đồng từ tài khoản số 1462207000654 mang tên Nguyễn Thanh T tại ngân hàng Agribank chi nhánh Tây Đô vào tài khoản số 1305205236025 mang tên Trương Minh L tại ngân hàng Agribank chi nhánh Tràng An, nội dung giấy chuyển khoản ghi: “Chuyển tiền cho anh L vay để đặt cọc D.A”. Sau khi nhận tiền do chị T chuyển khoản thì từ ngày 16/10/2015 đến ngày 03/11/2015 L đã rút ra chi tiêu cá nhân. Khoảng tháng 4/2016, chị T thấy dự án không được thực hiện nên nhiều lần hỏi L về số tiền 01 tỷ đồng thì L nói dối là đã chuyển vào Tổng công ty A nhưng do chưa tìm được đối tác nên dự án vẫn chưa thể triển khai. Do chờ đợi lâu nhưng lại không có kết quả nên chị T đề nghị L cho rút vốn về thì L lại nói là không rút ra được, vì L sẽ mất hết số tiền đã chi để “quan hệ”. Tháng 6/2016, chị T yêu cầu L cho xem giấy chuyển tiền vào Tổng công ty A, để chị T tin tưởng, L lấy ra 01 tờ phiếu thu cũ có dấu đỏ giơ lên cho chị T xem nhưng không cho xem kỹ nội dung cụ thể của phiếu thu rồi cất đi luôn và nói để L giữ, tránh thất lạc. Do nhiều lần chị T yêu cầu rút 1 tỷ đồng, nhưng L không thực hiện nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, được anh Trần Mạnh C, sinh năm: 1989; trú tại: số 21 ngõ 178 Cổ Nhuế, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội là người mà chị T và L nhờ tìm kiếm khách hàng tiềm năng để đầu tư vào dự án 11E6 đứng ra giảng hòa. Tháng 9/2016, L và anh C có gặp nhau giải quyết việc chị T đòi tiền. Do muốn biết L có nộp 1 tỷ đồng vào Tổng công ty A hay không, nên anh Cường đã bí mật dùng điện thoại ghi âm lại buổi nói chuyện có nội dung thể hiện việc L nói với anh Cường là đã đưa cho chị T xem phiếu chuyển số tiền 01 tỷ đồng vào Tổng công ty A, đã chuyển tiền đặt cọc được 08 tháng rồi nên không rút ra được.

Đến khoảng tháng 10/2016, chị T đến Tổng công ty A tìm hiểu thì được biết L không chuyển tiền vào Tổng công ty A như cam kết nên ngày 28/10/2016, chị T gửi đơn đến Công an quận Nam Từ Liêm tố giác Trương Minh L đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị. Trong quá trình xác minh đơn tố cáo, ngày 04/01/2017 L đã trả tiền cho chị T được 650 triệu đồng. Sau khi khởi tố vụ án, ngày 12/6/2018 gia đình L đã trả tiếp số tiền còn lại là 350 triệu đồng. Chị T đã nhận đủ số tiền 01 tỷ đồng và không yêu cầu gì và có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với L.

Quá trình điều tra, anh Cường đã copy file ghi âm trên ra USB và giao nộp cho cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định và dịch thành văn bản đối với file âm thanh anh Cường giao nộp.

Tại Kết luận giám định số 3051/C54-P6 ngày 02/8/2018 của Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát, kết luận:

- Tiếng nói của người đàn ông xưng “cháu” (ký hiệu Cường trong bản dịch nội dung) với tiếng nói của Trần Mạnh Cường là của cùng một người.

- Tiếng nói của người đàn ông xưng “chú” trong file âm thanh được lưu trong USB anh Cường giao nộp (ký hiệu L trong bản dịch nội dung) với tiếng nói cửa Trương Minh L là của cùng một người. (BL 61) Tại cơ quan điều tra, Trương Minh L khai nhận hành vi của mình như nêu trên.

Ông Đoàn Xuân Trường - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty COMA 10 khai: Khoảng năm 2015, L gọi điện nhờ ông T dẫn đến gặp ông Dương Văn H - Tổng Giám đốc công ty COMA để tìm hiểu về dự án 11.E6 Phạm Hùng. Do trước đó L cũng là thành viên Ban lãnh đạo Công ty COMA 10 nên ông Trường đồng ý giúp và hẹn L đến địa chỉ Tổng công ty A để dẫn L vào. L đi cùng 01 người phụ nữ (sau này ông biết là chị Phương Thị Bách L) đến Tổng công ty A, ông T đã dẫn L và chị L vào gặp ông H. Tại đây, L và chị L nói với ông H muốn tìm hiểu về dự án 11.E6 Phạm Hùng, ông H nói sơ qua về dự án này với L và chị L. Sau đó ông T ra về trước, L và chị L tiếp tục nói chuyện với ông H.

Ông Dương Văn H - Tổng giám đốc Tổng công ty A khai: Năm 2008 - 2009 Tổng công ty A được Ủy ban nhân dân thành phố N giao cho 01 lô đất ký hiệu 11E6 Phạm Hùng, Cầu Giấy, Hà Nội để làm văn phòng trụ sở làm việc của Tổng công ty A. COMA có mời gọi công khai nhà đầu tư có tiềm năng tài chính hợp tác đầu tư để xây dựng thành tổ hợp văn phòng - dịch vụ nhưng cho đến nay không có đối tác nào đủ tiềm lực tài chính để đầu tư dự án. Ông H gặp L một lần duy nhất thông qua ông Đoàn Xuân Trường - Chủ tịch Hội đồng quản trị COMA 10, L đi cùng 01 người phụ nữ (sau này ông được biết là chị Phương Thị Bách Lê) đến văn phòng làm việc của ông bàn về việc họp tác dự án 11.E6 Phạm Hùng. L giới thiệu chị L là đối tác có nhu cầu tham gia đầu tư dự án l1.E6 Phạm Hùng, Ông H đề nghị cung cấp hồ sơ năng lực nhà đầu tư nhưng không có. Sau đó, L và chị L ra về. Tổng công ty A không bán “quyền giao dịch dự án” cho bất kỳ ai và cũng không nhận tiền hay tài sản gì “lót tay” của ông L để bán quyền giao dịch hay ủy quyền giao dịch dự án 11.E6 Phạm Hùng.

Ông Phạm Việt Hùng - Phó Tổng giám đốc Tổng công ty A khai: Ông H biết L từ thời L làm ở COMA 18, sau chuyển đến COMA 10. Khoảng năm 2015, L đến gặp ông H nhiều lần để tìm hiểu về dự án 11E6 Phạm Hùng, ông H nói cho L biết về chủ trương của Tổng công ty A công khai kêu gọi các nhà đầu tư tham gia hợp tác đầu tư vào dự án. Ông H có cung cấp cho ông L 01 bộ hồ sơ pháp lý và 01 bản mẫu hợp đồng hợp tác đầu tư dự án 11.E6 Phạm Hùng để L giới thiệu khách hàng là nhà đầu tư cho Tổng công ty A. :

* Xác minh tại Tổng công ty cơ khí xây dựng (viết tắt là Tổng công ty A) - Bộ xây dựng được cung cấp: Tổng công ty A không phải là nhà đầu tư dự án tổ hợp thương mại, văn phòng, dịch vụ tại vị trí lô đất 11.E6. Thực tế lô đất ký hiệu 11.E6 thuộc Đô thị mới Cầu Giấy, Hà Nội, Tổng công ty A mới được Ủy ban nhân dân thành phố N có văn bản chấp thuận nghiên cứu lập dự án xây dựng trụ sở văn phòng Tổng công ty tại Quyết định số 1987/QĐ-UBND ngày 11/11/2008. Cá nhân người có tên Trương Minh L từ trước đến nay chưa có bất kỳ giao dịch trong sản xuất kinh doanh, hợp tác đầu tư với Tổng công ty A và do đó không có bất cứ giao dịch tiền với Tổng công ty A (BL 165).

* Xác minh tại Công ty cổ phần cơ khí xây dựng số 10 (viết tắt là công ty COMA 10) được cung cấp: Công ty COMA 10 không biết thông tin về dự án 11.E6 và không được Tổng công ty A giao quyền đại diện đầu tư Dự án tổ hợp thương mại, văn phòng, dịch vụ tại vị trí lô đất 11.E6 đường Phạm Hùng - Cầu Giấy - Hà Nội, Công ty COMA 10 không hợp tác và không biết việc ông L kêu gọi đầu tư và thu tiền của chị T trong việc giới thiệu vào dự án 11.E6.

Tháng 02/2012 ông Trương Minh L được Công ty cổ phần xây dựng và lắp máy điện nước số 3 (nay đổi thành Công ty COMA 10) bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng giám đốc công ty kiêm Giám đốc Chi nhánh Công ty cổ phần xây dựng và lắp máy điện nước số 3 phía bắc.

Tháng 5/2012 tại Đại hội cổ đông thường niên của Công ty cổ phần xây dựng và lắp máy điện nước số 3, ông Trương Minh L được bầu vào ủy viên Hội đồng quản trị Công ty nhiệm kỳ III và kiêm giữ chức vụ Phó tổng giám đốc Công ty và giám đốc chi nhánh COMA3 Thái Nguyên.

Tháng 9/2013 Hội đồng quản trị Công ty có quyết định số 36/QĐ-CT3 về việc ông Trương Minh L thôi kiêm nhiệm chức vụ Giám đốc chi nhánh COMA3 Thái Nguyên.

Tháng 4/2014 do điều kiện cá nhân nên ông Trương Minh L có đơn đề nghị gửi Hội đồng quản trị, Ban điều hành công ty xin nghỉ không lương, tự túc tham gia các chế độ bảo hiểm xã hội và xin miễn tham gia các cuộc họp của Hội đồng quản trị và Ban điều hành công ty.

Tháng 7/2015 Công ty đuợc Tổng công ty A thoái phần vốn của nhà nước theo Công văn số 3099/BXD-QLDN ngày 28/11/2014, sau Đại hội cổ đông bất thường, Hội đồng quản trị đã bầu lại các chức danh, chủ chốt của Công ty và ông L không còn là ủy viên Hội đồng quản trị công ty nữa (BL 166-167).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HS-ST ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân thành phố N đã căn cứ các Điều 45, 46, 260, 268, 269, 299, 326, 327 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

1 .Tuyên bố bị cáo Trương Minh L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm o khoản 4 Điều 174; điểm b, s, x khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt Trương Minh L 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/5/2018 đến ngày 24/9/2018.

Về bồi thường thiệt hại:

Bị cáo Trương Minh L đã bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh T 1.000.000.000 (một tỷ đồng), bà Tâm không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét. Ngoài ra, Bản án còn tuyên phần án phí, quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/4/2019, bị cáo Trương Minh L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Trương Minh L thay đổi nội dung kháng cáo chuyển sang kêu oan, bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội như bản án sơ thẩm xét xử đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật của bản án sơ thẩm, lời khai của bị cáo, của người bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì có đủ căn cứ pháp luật để khẳng định bị cáo Trương Minh L không bị xét xử oan. Xét mức hình phạt 04 năm tù đối với bị cáo không phải là nặng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ, kêu oan của bị cáo, để giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo - Luật sư Đỗ Văn Hùng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét khách quan-toàn diện vụ án về hành vi phạm tội của bị cáo, để xét xử bị cáo đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; căn cứ vào kết quả xét hỏi tranh tụng và tranh luận công khai tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan- toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo L, lời khai của người bị hại có trong hồ sơ vụ án, bào chữa của Luật sư cho bị cáo L, 

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Về tố tụng: Quá trình điều tra, giải quyết vụ án thì các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung: Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo L chưa thực sự thành khẩn khai báo về hành vi lừa đảo của mình. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của người bị hại chị Nguyễn Thanh T, cũng như chính lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì có đủ căn cứ vững chắc để khẳng định: Bị cáo Trương Minh L đã có hành vi gian dối ngay từ đầu để nhằm chiếm đoạt tiền của chị T, cụ thể: bị cáo đưa ra thông tin không đúng sự thật làm cho chị T tin tưởng bị cáo nói là thật, nên đã chuyển tiền cho bị cáo. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị kết án oan.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, vì đã có hành vi gian dối lừa đảo chiếm đoạt của người bị hại số tiền rất lớn (1 tỷ đồng). Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 có mức hình phạt rất nghiêm khắc, có mức hình phạt từ 12 đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Trương Minh L được thể hiện như sau:

Chị Nguyễn Thanh T được Trương Minh L bàn bạc thỏa thuận cùng nhau chung tiền đầu tư dự án và L giới thiệu, L là Phó giám đốc, là người được Công ty giao làm đại diện Công ty để kêu gọi đầu tư dự án, trước khi chuyển tiền vào tài khoản giữa chúng tôi thống nhất cùng nhau chuyển tiền vào COMA để đầu tư dự án, thực chất là để được quyền mua, quyền đầu tư. Nhưng sau đó, chỉ có chị T chuyển tiền vào tài khoản để nhờ L chuyển vào COMA, nhưng L không chuyển tiền vào COMA như L đã cam kết với chị T và cũng không hề có hoạt động gì đầu tư dự án.

Bị cáo L còn khai: Thời điểm chị T chuyển tiền cho tôi thì tôi không còn làm lãnh đạo ở Công ty COMA nữa và tôi cũng không phải là người được Tổng công ty A giao quyền người đại diện kêu gọi đầu tư dự án 11E6 và tôi còn nhận thức được việc mua quyền đầu tư là điều không dễ dàng thực hiện được, nhưng tôi vẫn làm.

Người bị hại là chị Nguyễn Thanh T thì trước sau trình bày: trước khi chuyển tiền vào tài khoản của Trương Minh L thì chúng tôi thỏa thuận (tiền của tôi phải được bảo tồn trong 3 tháng, nếu trong 3 tháng mà không làm được việc gì thì phải rút tiền trả lại cho tôi, anh L đồng ý và nói với tôi “cứ yên tâm”, nhiều lần tôi hỏi phiếu thu tiền ở đâu thì có lần L đưa ra cho tôi một phiếu thu không phải của tôi với ý thức lừa tôi để tôi yên tâm và L nói để L giữ cho, đưa tôi giữ thì sợ tôi làm mất. Việc tôi chuyển tiền vào tài khoản của L là do trước đó L nói với tôi để L chuyển tiền cho thì cần là rút ra được, vì L quen với lãnh đạo và kế toán trưởng ở đó, còn không thì sẽ không bao giờ rút ra được. L còn nói với tôi, L là người được giao quyền kêu gọi nhà đầu tư.

Như vậy, do bị cáo L đưa ra những thông tin không đúng sự thật như đã nêu trên với mục đích làm cho chị T tin tưởng nên đã chuyển tiền vào tài khoản cho bị cáo và ngay trong ngày nhận được tiền của chị T thì bị cáo đã rút ra sử dụng việc riêng, rồi sau đó tìm mọi cách thoái thác, không trả lại tiền, rồi bỏ trốn; như vậy hành vi của bị cáo là hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Lừa đảo” là có căn cứ pháp luật.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Sau khi vụ án bị phát hiện bị cáo L đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đã bồi thường đầy đủ cho người bị hại, nên người bị hại không những không còn yêu cầu gì nữa mà lại có đơn xin khoan hồng giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo Trương Minh L là con liệt sỹ và hiện tại còn mẹ già gần 80 tuổi. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trương Minh L 04 năm tù là đã rất khoan hồng giảm nhẹ cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trương Minh L cũng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nữa, nên Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ để giảm nhẹ mức hình phạt tù cho bị cáo được nữa. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội cũng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù đối với bị cáo Trương Minh L, để giữ nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù cũng như kêu oan của bị cáo Trương Minh L, để giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 107/2019/HS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Nay tuyên bố:

Bị cáo Trương Minh L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Trương Minh L 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bắt lại lần 2 ngày 22/10/2019 (nhưng được trừ thời gian bị cáo đã bị bắt tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 31/5/2018 đến ngày 24/9/2018).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (05/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 687/2019/HSPT ngày 05/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:687/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về