Bản án 78/2019/HSPT ngày 21/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 78/2019/HSPT NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2019/HSPT ngày 14/01/2019 đối với các bị cáo Bùi Anh V và Phan Bảo H về tội “Cố ý gây thương tích” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 341/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Bùi Anh V (Tên gọi khác: X); sinh năm 1989, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 3, xã HT, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mường; Tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; con ông Bùi Đức Đ và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2011/HSST ngày10/01/2011 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt bị cáo Bùi Anh V 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 19/01/2013, chấp hành xong hình phạt tù và đã được xoá án tích. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Họ và tên: Phan Bảo H (Tên gọi khác: Q); sinh năm 1984, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký HKTT: 166/38 NTP, phường TC, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk; Nơi ở: 329/1A LD, phường ET, thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Phan Văn A và bà Lê Kim B; Bị cáo có vợ là Lê Thị Thúy C, có 01 con sinh năm 2016; Tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Bản án số 15/2004/HSST ngày 03/3/2004, Toà án nhân dân huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt bị cáo Phan Bảo H 07 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 14/10/2004, chấp hành xong hình phạt tù và đã được xoá án tích;

- Bản án số 70/2007/HSST ngày 25/10/2007, Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt bị cáo Phan Bảo H 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Được hoãn chấp hành hình phạt tù theo Quyết định số 03/2007/QĐ- CA ngày 28/11/2007. Trong thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù, đến ngày 17/01/2008, bị cáo thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại tỉnh Đồng Nai.

- Bản án số 70/2008/HSST ngày 29/4/2008, Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, xử phạt bị cáo Phan Bảo H 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 70/2007/HSST ngày 25/10/2007 của Toà án nhân dân huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05 năm 02 tháng 03 ngày tù. Ngày 21/3/2012 chấp hành xong hình phạt tù và đã được xoá án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, Có mặt.

* Người bị hại: Anh Đỗ thái K, sinh năm: 1986, trú tại: 129/19 AMK, phường TL, thành phố BMT, vắng mặt.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị cáo Nông Văn M, bị cáo Nguyễn Viết N nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 14/5/2018, Đào Thị Thùy S (bạn gái của Phan Bảo H) đến nhà của Đỗ thái K để xin khất nợ. K nói với S cùng với K đi xe ô tô về nhà để nói bố mẹ chồng của S trả nợ giúp cho S. Sau đó, khi đang trên xe ô tô K với S xảy ra mâu thuẫn nên K dùng tay tát S một cái vào mặt. S dùng điện thoại di động nhắn tin qua phần mềm mạng xã hội Zalo cho H biết để nhờ H đến giúp đỡ, đưa về. Nhận được tin nhắn, H liền nói với Nông Văn M (là người đi thu tiền góp cho H và đang ở tại nhà H) là: “Con S, bồ anh đang bị bắt và bị đánh ở 54 THL, qua đó với anh xem sao”. Khi nghe H nói, M đi đến đường luồng trong phòng khách tại nhà của H lấy 01 con dao dài 36cm, cán bằng gỗ màu nâu, lưỡi bằng kim loại màu trắng, sắc nhọn, bọc vỏ gỗ màu nâu rồi cùng đi với H.

Sau đó, H tiếp tục gọi điện thoại cho Nguyễn Viết N và nói với N: “Con bồ tao đang bị đánh dưới THL, tao không qua mày nhậu được”. Lúc này, N nói với những người đang ngồi nhậu cùng, gồm Bùi Anh V (là người làm cho H), Lê Đình G và người tên R (chưa xác định nhân thân, lai lịch): “Con bồ thằng X đang bị đánh dưới THL”. Vì là bạn của nhau nên khi nghe tin như vậy thì cảnhóm đồng ý cùng tham gia giúp H. N liền đi đến  cửa phía trước nhà lấy 01 khẩu súng (Đến nay chưa làm rõ được khẩu súng này, vì không thu giữ được) đã cất giấu từ trước rồi cùng R điều khiển xe mô tô (chưa xác định biển số) của R, còn V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda 67, biển số 70-178ME, chở G, rồi cả bốn người cùng đi đến chỗ H. Lúc này, H cũng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 47B1 - 494.21 chở M đi đến đường THL, phường TT.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi nhóm của N gần đến nhà số 54 THL thì thấy H và M cũng vừa đến. Sau đó, H đi bộ đến trước nhà số 54 THL và thấy S đang ngồi trong xe ô tô của K. E và F thì đứng bên ngoài, gần xe ô tô còn K đang đứng bên ngoài cổng nói chuyện vào bên trong với mẹ chồng của S là bà Nguyễn Thị Phương U. H đi đến nói S ra khỏi xe và hỏi S: “Ai đánh em” thì S chỉ vào K thì H nói lớn: “Người ta nợ tiền thì từ từ trả sao lại đánh người ta?”, K trả lời: “Em không đánh, có gì từ từ nói chuyện”, H hỏi tiếp thì S vừa khóc vừa chỉ tay vào K, ngay lúc này H liền dùng tay tát K 01 cái trúng mặt thì K cùng E, F bỏ chạy. V liền đuổi theo dùng tay kéo tóc làm K ngã xuống vỉa hè trước nhà số 54 đường THL, tay còn lại V giữ áo K để cho M dùng dao chém 01 phát vào vùng chân của K nhưng không trúng, H dùng tay chân đấm, đá vào người của K, còn N vừa chạy đến thì dùng súng bắn 02 phát chỉ thiên và bắn 01 phát về hướng xuống vỉa hè để đe dọa K. Lúc này, K sợ hãi, chỉ biết chống đỡ mà không dám đánh trả lại. V vẫn tiếp tục kéo tóc, giữ áo K lại, M tiếp tục dùng dao chém 01 phát trúng khủy tay phải của K, gây thương tích. Thấy vậy, N đẩy M ra không cho M chém K nữa, còn V vẫn giữ K để cho H đá K thêm 01 phát trúng người K còn N thì hướng súng về phía K để tiếp tục đe dọa và nói lớn: “Mẹ, tao bắn cho mày què giò” nhưng N không bắn. Sau đó, H cùng đồng bọn bỏ về, còn K đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk để cấp cứu. Khi vụ việc xảy ra, Lê Đình G và đối tượng tên R không tham gia đánh K.

Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 619/PY-TgT ngày 15/5/2018 và Bản kết luận giám định thương tích bổ sung số 817/PY-TgT ngày 12/7/2018 của Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Đỗ thái K bị gãy mõm khủy tay phải, đứt dây thần kinh trụ và cơ tam đầu, vật tác động sắc bén; tỷ lệ thương tích: 26%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 341/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Bùi Anh V và Phan Bảo H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bùi Anh V: 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt Phan Bảo H: 2 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Nông Văn M, bị cáo Nguyễn Viết N, giải quyết về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/12/2018, ngày 06/12/2018 bị cáo Bùi Anh V và bị cáo Phan Bảo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Bùi Anh V và bị cáo Phan Bảo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng và Bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như các lời khai của các bị cáo khác và phù hợp các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và xác định: Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Bùi Anh V, bị cáo Phan Bảo H phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt 03 (Ba) năm tù đối với bị cáo Bùi Anh V và 02 (Hai) năm tù đối với bị cáo Phan Bảo H mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm.

Bị cáo V, bị cáo H không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Căn cứ lời khai của bị cáo Bùi Anh V và bị cáo Phan Bảo H tại phiên toà phúc thẩm và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giơ ngày 14/5/2018, tại trước số nhà số 54 đường THL, phường TT, thành phố BMT, do bực tức về việc bạn gái của Phan Bảo H là chị Đào Thị Thùy S bị anh Đỗ thái K đánh nên Bùi Anh V đã dùng tay kéo anh Đỗ thái K ngã xuống đường để Nông Văn M dùng dao chém anh Đỗ thái K trúng vào khủy tay; Phan Bảo H dùng tay, chân đấm đá anh K và Nguyễn Viết N dùng 01 khẩu súng (chưa rõ loại súng gì) bắn chỉ thiên để đe dọa anh K làm cho bị thương tích là 26%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Phan Bảo H và Bùi Anh V phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của anh Đỗ thái K với tỷ lệ thương tích 26%, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phan Bảo H và Bùi Anh V, thì thấy: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Bùi Anh V 03 năm tù và bị cáo Phan Bảo H 02 năm tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, tuy bị cáo V là người đã kéo tóc, giữ áo anh K lại để tạo điều kiện cho bị cáo H dùng chân tay đánh đá anh K và Nông Văn M dùng dao chém anh K, nhưng việc M mang theo con dao để chém anh K thì các bị cáo không biết, mà thương tích của anh K là do bị cáo M gây ra. Mặt khác, bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội là do bức xúc, vì trước đó người bị hại đã đánh bạn gái của bị cáo. Do vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt và chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm về hình phạt là phù hợp.

[4]. Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Anh V và bị cáo Phan Bảo H, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 341/2018/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về hình phạt.

[2]. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Bùi Anh V 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phan Bảo H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Bùi Anh V, Phan Bảo H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

905
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HSPT ngày 21/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:78/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về