Bản án 68/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH , TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/QĐXX-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021; Thông báo về việc rời lịch phiên tòa xét xử vụ án hình sự số 09/TB-TA ngày 13/5/2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa xét xử vụ án hình sự số 13/TB-TA ngày 20/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đào Cao D, sinh ngày 24/9/1976, nơi cư trú: Số nhà 88, đường T, tổ 14, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Cao T (ông Tán là thương binh hạng 1/4) và bà Phạm Thị N; đã ly hôn vợ là chị Vũ Thị H, có 01 con;

Tiền án: Bản án số 08/2015/HSST ngày 23/01/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 22/10/2015 chấp hành xong hình phạt tù, chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm và tiền sung quỹ nhà nước.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Quyết định số 3531/QĐCT ngày 23/12/2004 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do nhiều lần trộm cắp tài sản, thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 24/12/2004. Chấp hành xong ngày 24/12/2006.

- Quyết định xử phạt hành chính ngày 24/12/2004 của Công an Phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình do sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt là cảnh cáo.

- Quyết định số 465/QĐ-UBND ngày 15/6/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh do nghiện ma túy, thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 15/6/2007. Chấp hành xong ngày 15/6/2008.

- Quyết định số 1965/QĐ-UBND ngày 09/8/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội do nghiện ma túy, thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 09/8/2010. Chấp hành xong ngày 09/8/2011.

- Quyết định số 900/QĐCT ngày 27/4/2012 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục do nhiều lần trộm cắp tài sản, thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 27/4/2012. Chấp hành xong ngày 27/4/2014.

- Quyết định số 65/QĐ – TA ngày 02/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, lý do nghiện ma túy, thời hạn 18 tháng. Chấp hành xong ngày 14/5/2018.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/02/2021, tạm giam từ ngày 04/02/2021 đến nay;

trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Anh Đoàn Văn T, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn Sơn Đồng, xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt).

* Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Đăng S, sinh năm 1961; Nơi cư trú: Số nhà 05, tổ 12, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt).

- Ông Bùi Quang T, sinh năm 1954; Nơi cư trú: Số nhà 182, tổ 16, phường T, thành phố B, tỉnh Thái Bình, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01/02/2021, tại khu vực tổ 15, phường T, thành phố B, bị cáo Đào Cao D gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 55 tuổi không biết tên, địa chỉ số tiền 600.000 đồng được 04 gói ma túy mục đích để bản thân sử dụng. Bị cáo cất 04 gói ma túy vào túi quần bên phải của bị cáo rồi đi bộ ra đường T, thành phố B và bắt xe Taxi hãng M do anh Đoàn Văn T điều khiển để đi chơi. Khi xe Taxi chở D đến khu vực đường Đ, tổ 11, phường L, thành phố B thì bị tổ công tác 141 Công an tỉnh Thái Bình và Công an thành phố Thái Bình yêu cầu anh T dừng xe để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Đăng S, ông Bùi Quang T, bị cáo D tự giác lấy từ túi quần bên phải của bị cáo ra giao nộp cho tổ công tác 04 gói, bên ngoài đều được gói bằng nilon màu đen, bên trong đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong cùng của 04 gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo D khai nhận đó là Hêrôin do bị cáo mua trước đó để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác yêu cầu bị cáo D, anh T và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình để làm việc. Qua kiểm tra người bị cáo D thu được như sau: Tại túi quần bên trái một điện thoại di động nhãn hiệu GOLY - G306 màu đen, thu tại túi áo khoác bên phải một ví giả da màu đen bên trong có số tiền 370.000 đồng; kiểm tra người anh T và xe ô tô do anh T điều khiển nhưng tổ công tác không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 44/KLGĐMT-PC09 ngày 03/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi “Vật chứng quản lý của Đào Cao D, sinh năm 1976, ĐKHKTT tại số nhà 88, đường T, tổ 14, phường P, thành phố B, tỉnh Thái Bình, ngày 01/02/2021” gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,3008 gam (Không phẩy ba nghìn không trăm linh tám gam).

Tại cơ quan điều tra người làm chứng: Anh Đoàn Văn T khai: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 01/02/2021, anh được người nam giới tên là Đào Cao D thuê chở từ khu vực phường T, thành phố B để đi chơi. Anh đồng ý và chở Đào Cao D đi đến khu vực tổ 11, phường L, thành phố B thì bị Công an yêu cầu anh dừng xe để kiểm tra. Đào Cao D lấy từ trong túi quần bên phải của mình ra 04 gói khai là ma túy và nộp cho lực lượng Công an.

Tại cơ quan điều tra người những người chứng kiến: Ông Nguyễn Đăng S, ông Bùi Quang T đều khai: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 01/02/2021, tại khu vực tổ 11, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, các ông chứng kiến người nam giới bị Công an kiểm tra khai tên là Đào Cao D rồi tự giác lấy từ túi quần bên phải của mình giao nộp cho tổ công tác 04 gói đều được gói bằng nilon màu đen, bên trong đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong cùng đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Đào Cao D khai là Hêrôin. Công an kiểm tra người nam giới này còn thu tại túi quần bên trái của người này 01 điện thoại di động nhãn hiệu GOLY - G306 màu đen, thu tại túi áo khoác bên phải một ví giả da màu đen bên trong có số tiền 370.000 đồng, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì khác.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Đào Cao D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số: 65/CT - VKSTP ngày 24/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Đào Cao D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên luận tội: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi nội dung vụ án nên khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng pháp luật. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đào Cao D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đào Cao D mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 01/02/2021. Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng bằng hình thức: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu GOLY - G306 màu đen, 01 ví giả da màu đen và số tiền 370.000 đồng nhưng tạm quản lý để thi hành án.

Về nguồn gốc số ma túy, không có căn cứ để điều tra, xử lý vì bị cáo Đào Cao D không biết tên, tuổi, địa chỉ của người bán ma tuý cho bị cáo.

Đối với anh Đoàn Văn T là người lái taxi chở bị cáo D, anh T không biết bị cáo đi mua ma túy và tàng trữ chất ma túy, nên không có căn cứ xử lý.

Bị cáo Đào Cao D xác định cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật vì vậy bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh và mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên và Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đó là các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh cho hành vi phạm tội của bị cáo. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên bị cáo không khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng.

[2]. Căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, đồng thời còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình lập hồi 20 giờ 55 phút ngày 01/02/2021; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an thành phố Thái Bình lập hồi 22 giờ 05 phút ngày 01/02/2021; Bản Kết luận giám định số 44/KLGĐMT - PC09 ngày 03/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của người chứng kiến: Ông Nguyễn Đăng S và ông Bùi Quang T; cùng các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh về thời gian, địa điểm phạm tội của bị cáo thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 20 giờ 45 phút ngày 01/02/2021, tại khu vực đường Lê Quý Đôn, tổ 11, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tổ công tác 141 Công an tỉnh Thái Bình phối hợp Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Đào Cao D có hành vi tàng trữ trái phép 04 gói ma túy, loại Heroin (Hêrôin), có khối lượng 0,3008 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, lẽ ra bị cáo phải nhận thức rõ c tác hại do ma túy gây ra cũng như phải hiểu được quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy, song để đạt được nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy. Xét về lỗi và mục đích phạm tội của bị cáo thì thấy phù hợp với dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 - Tội tàng trữ trái phép chất ma túy: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) ...; c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”. Như vậy, hành vi của bị cáo Đào Cao D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét anh Đoàn Văn T là người lái xe taxi được bị cáo Đào Cao D thuê chở đi chơi, anh T không biết bị cáo mua chất ma túy và tàng trữ chất ma túy trên người, nên cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý anh T là phù hợp.

[4]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó đã cố ý xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét nguyên nhân và điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội là song để đạt được nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo không tuân thủ pháp luật, vì vậy cần xét xử bị cáo nghiêm minh bằng pháp luật.

[5]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Tại Bản án số 08/2015/HSST ngày 23/01/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/10/2015 nhưng chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm và tiền tịch thu nộp ngân sách nhà nước nên xác định bị cáo chưa chấp hành xong bản án, do đó bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng là “Tái phạm“ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo còn có nhân thân xấu: Các năm: 2004, 2007, 2010, 2012, 2016 bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên cần xem xét khi quyết định hình phạt. Song cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, có bố đẻ là thương binh hạng ¼ cho nên khi lượng hình bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là phạt tù có thời hạn - buộc bị cáo cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo là người nghiện, lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của 01 người phụ nữ không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý người bán ma tuý cho bị cáo là phù hợp.

[8]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Hêrôin, thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về tài sản khác: Đối với 01 điện thoại di động hiệu GOLY - G306 màu đen, 01 ví giả da màu đen và số tiền 370.000 đồng; xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo có nguyện vọng xin lại nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[10]. Về án phí: Bị cáo Đào Cao D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11]. Bị cáo Đào Cao D có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Cao D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đào Cao D 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 01/02/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy loại Hêrôin, thu của bị cáo Đào Cao D còn lại sau giám định và bao gói.

4. Tài sản khác: Trả lại cho bị cáo Đào Cao D: 01 điện thoại di động hiệu GOLY - G306 màu đen, 01 ví giả da màu đen và số tiền 370.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Vật chứng và tài sản khác có đặc điểm như ghi tại: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/02/2021; Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/4/2021 giữa Công an thành phố Thái Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình.

5. Án phí: Buộc bị cáo Đào Cao D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Quyền kháng cáo: Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 03/6/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về