Bản án 68/2020/HSST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 68/2020/HSST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 26-02-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐ-HSST ngày 03-3-2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Chiến T, sinh năm 1975 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số nhà 179 đường H, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Bỉnh Đ và bà Vũ Thị B; có vợ Nguyễn Thị P và có 01 con; tiền án: Ngày 27-3-2017 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Ra trại ngày 20-9-2018), tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03-02-2005 Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 04-9-2008 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định Định xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16 tháng 12 năm 2019 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Quang V và ông Nguyễn Thanh T (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 55 phút ngày 16-12-2019, Tổ công tác Phòng Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực đầu ngõ 24 đường Nguyễn D, thành phố N phát hiện Bùi Chiến T đang đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. T đã tự giác lấy từ trong miệng của mình ra cầm trong tay trái 02 gói nhỏ nilong màu đen, mở kiểm tra bên trong 02 gói nilong màu đen là 02 gói giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Phòng Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Nam Định lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản kết luận giám định số 1145/GĐKTHS ngày 16-12-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng trong 02 gói nhỏ thu giữ của Bùi Chiến T được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine, khối lượng mẫu: 0,149 gam.

Tại Cơ quan điều tra: Bùi Chiến T đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng như sau: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 16-12-2019 Bùi Chiến T đi bộ một mình từ nhà ra ngõ 24 đường Nguyễn D, phường Nguyễn D, thành phố N đến một nhà (Không nhớ rõ số nhà) mua qua khe cửa (Không rõ người bán) 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau đó T cầm 02 gói Heroine được gói trong 2 túi nilong màu đen cho vào trong miệng ngậm rồi đi bộ về tìm nơi sử dụng. Khi đi đến đầu ngõ 24 đường Nguyễn D, phường Nguyễn D, thành phố N thì bị phát hiện bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 59/CT-VKSTPNĐ ngày 25-02-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Bùi Chiến T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Bùi Chiến T xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có một tiền án chưa được xoá án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Bùi Chiến T theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Chiến T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Bùi Chiến T từ 27 tháng tù đến 33 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Chiến T có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng nên đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 11 giờ 55 ngày 16-12-2019, tại khu vực đầu ngõ 24 đường Nguyễn D, phường Nguyễn D, thành phố N, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,149 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Bùi Chiến T có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị Toà án đưa ra xét xử.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 1145/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Bùi Chiến T Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Chiến T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Bùi Chiến T 27 (Hai bẩy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 16 tháng 12 năm 2019.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 1145/GĐKTHS (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 02 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Án phí: Bị cáo Bùi Chiến T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Chiến T được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HSST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:68/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về