Bản án 68/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 68/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2020/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 50/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, nơi cư trú: Số 2 T, phường V, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Công C, nơi cư trú: Thôn Lương Quy, xã Lê Lợi, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 16 tháng 3 năm 2020 và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Trần Công C trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, quận H, thành phố Hải Phòng vào ngày 02 tháng 10 năm 2013. Sau khi kết hôn vợ chồng cư trú tại Khu C, xã A, huyện A thành phố Hải Phòng, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên vợ chồng thường xuyên xẩy ra va chạm, cãi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay không ai còn quan tâm và có trách nhiệm với ai nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Công C.

Về con chung: Chị và anh Trần Công C có hai con chung là Trần Công Gia M sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014 và Trần Công Đức A sinh ngày 24 tháng 7 năm 2016, ly hôn chị T đề nghị Tòa án giao con chung Trần Công Đức A cho chị nuôi dưỡng và giao con chung Trần Công Gia M cho anh C nuôi dưỡng. Chị và anh C không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Chị không đồng ý để anh C nuôi hai con vì chị có đủ điều kiện để nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 12/8/2020 bị đơn anh Trần Công C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thời gian, điều kiện kết hôn và mâu thuẫn của vợ chồng như lời khai chị T đã trình bày ở trên. Từ năm 2017 vợ chồng thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn cãi nhau nhưng hiện tại anh có quan điểm đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Anh và chị Bùi Thị T có hai con chung như chị Bùi Thị T trình bày, nếu chị T vẫn giữ quan điểm ly hôn với anh thì anh đề nghị Tòa án giao hai con chung Trần Công Gia M và Trần Công Đức A cho anh nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Trần Công C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn không chấp hành các quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự khi vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn anh Trần Công C; về con chung: Giao con chung Trần Công Đức A sinh ngày 24 tháng 7 năm 2016 cho chị Bùi Thị T nuôi dưỡng và giao con chung Trần Công Gia M sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014 cho anh C nuôi dưỡng sau ly hôn đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; chị T và anh C không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai; về tài sản chung:

không xem xét giải quyết; về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

 [1] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Bị đơn anh Trần Công C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Trần Công C.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập, đủ cơ sở xác định: Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M, quận H, thành phố Hải Phòng vào ngày 02 tháng 10 năm 2013, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên thường xuyên xảy ra va chạm, cãi nhau, do mâu thuẫn nên chị T và anh C đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay không ai quan tâm và có trách nhiệm với ai nữa. Quá trình giải quyết vụ án, anh C mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, Tòa án đã thông báo phiên họp hòa giải để hòa giải mâu thuẫn vợ chồng nhưng anh C vắng mặt không có lý do, tại phiên tòa anh C tiếp tục vắng mặt không có lý do, chị T không đồng ý đoàn tụ với anh C và vẫn giữ quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn nên vụ án không hòa giải được. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh C đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C có hai con chung là Trần Công Gia M sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014 và Trần Công Đức A sinh ngày 24 tháng 7 năm 2016. Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Xét thấy, sau ly hôn việc nuôi dưỡng con chưa thành niên là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, chị T và anh C đều có công việc và thu nhập nên khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là như nhau, nên giao cho chị T và anh C mỗi người nuôi một con. Do con chung Trần Công Đức A còn nhỏ nên giao con Trần Công Đức A cho chị T nuôi dưỡng và giao con Trần Công Gia M cho anh Trường nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C mỗi người nuôi một con nên không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

[5] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị T được ly hôn anh Trần Công C.

2. Về con chung: Giao con chung Trần Công Đức A sinh ngày 24 tháng 7 năm 2016 cho anh Bùi Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Trần Công Gia M sinh ngày 20 tháng 6 năm 2014 cho anh Trần Công C trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Bùi Thị T và anh Trần Công C không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Bùi Thị T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0012531 ngày 24 tháng 04 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:68/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về