Bản án 67/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 67/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 65/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Trường Gi – Sinh ngày 08 tháng 8 năm 1993 tại thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: phố V, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và con bà Nguyễn Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không.

Nguyễn Trường Gi bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 19/7/2021, đến ngày 24/7/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Lệnh tạm giam số 40 ngày 24/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Xuân Tr, sinh năm: 1987; Địa chỉ: phố V, phường B, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; (vắng mặt).

- Người làm chứng: ông Nguyễn Hồng Â, sinh năm: 1979; (vắng mặt)

- Người chứng kiến: bà Bùi Thị Hoài Th, sinh năm: 1973; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 00 phút ngày 19/7/2021, tổ công tác Công an xã Q, thành phố T tiến hành tuần tra, kiểm soát trên địa bàn. Khi đến đoạn đường thuộc thôn T, xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình, tổ công tác phát hiện 01 nam thanh niên lạ mặt có biểu hiện nghi vấn đang ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu xanh – đen – bạc, BKS 35B1-329.87. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân, nam thanh niên chấp hành và khai họ tên là Nguyễn Trường Gi và xuất trình thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Trường Gi. Khi tổ công tác hỏi Gi có sử dụng ma túy không, Gi khai nhận bản thân có sử dụng ma túy loại đá (Methamphetamine) và giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon màu trắng, bên trong là ma túy đá đang cầm trên tay phải trước đó Gi mua được của người tên N không biết họ chữ đệm và địa chỉ cụ thể ở thị xã B, tỉnh Thanh Hóa, là bạn bè xã hội, mang theo để sử dụng. Tổ công tác thu giữ, kiểm tra xác định túi nilon màu trắng, có kích thước (2x2,5)cm, bên trong có chất tinh thể màu trắng, tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật. Sau đó, tổ công tác đưa Gi và vật chứng thu giữ về trụ sở Công an xã Q lập biên bản thu giữ và niêm phong phong vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang. Đến 15 giờ 20 phút cùng ngày, Công an xã Q giao Nguyễn Trường Gi cùng tài liệu, vật chứng cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong cân chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Trường Gi có khối lượng là 0,33gam, ký hiệu là M gửi giám định.

Tại Bản kết luận giám định số 581/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3333 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, số thứ tự 323; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Trường Giang đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT – VKS ngày 18 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường Gi ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường Gi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường Gi từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 19/7/2021.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu xám đã qua sử dụng số IMEI 355682074492824.

- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 581/KLGĐ-PC09-MT. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,2790 gam là ma túy loại methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong niêm phong;

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi ni lon màu trắng kích thước (2 x 2,5)cm; 01 vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu.

+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Trường Gi.

+ 01 (một) sim Vietnammobile số thuê bao 0564746586, trên mặt sim có dãy số 8984050919 1034460333.

- Trả lại cho Nguyễn Trường Gi số tiền 27.000 đồng Trong quá trình điều tra, ông Nguyễn Hồng  trình bày: khoảng 10 giờ 00 phút ngày 19/7/2021 ông đang đi bộ một mình trong ngõ thuộc thôn T, xã Q, thành phố T thì thấy lực lượng Công an đang đi đến gần một người đàn ông đang ngồi trên chiếc xe mô tô BKS 35B1 – 329.87 dựng ở lề đường bên phải. Thấy vậy ông đi lại gần để xem. Lực lượng Công an mời ông làm chứng việc kiểm tra người đàn ông, ông thấy người đàn ông chấp hành yêu cầu kiểm tra và khai báo tên là Nguyễn Trường Gi, sinh năm 1993 ở tại phố V, phường B, thành phố N, đồng thời ông thấy Gi giao nộp cho lực lượng Công an 01 túi ma túy đá mà Gi đang cầm ở tay phải. Lực lượng Công an đã thu giữ tiến hành kiểm tra túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và niêm phong đồng thời lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, lực lượng công an mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng, kiểm tra dấu vết trên thân thể của Nguyễn Trường Gi.

Người chứng kiến là bà Bùi Thị Hoài Th cũng khai nhận đã được Công an mời làm chứng việc Công an tiến hành kiểm tra, thu giữ ma túy của Nguyễn Trường Gi, sau đó lập biên bản niêm phong số ma túy đã thu giữ và đưa Gi về trụ sở Công an xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với nội dung sự việc đúng như bản cáo trạng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số: 581/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 19/7/2021, tại đoạn đường thuộc thôn T, xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình, Nguyễn Trường Gi có hành vi tàng trữ trái phép 0,3333 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an xã Q, thành phố T phát hiện bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ...;

c) Heroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………

Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: bị cáo Nguyễn Trường Gi chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Trường Gi.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Trường Gi khai nhận có quen biết người tên N nhà ở thị xã B, tỉnh Thanh Hóa (không xác định được họ, địa chỉ cụ thể). Ngày 19/7/2021, Gi sử dụng điện thoại di động của mình nhắn tin và gọi điện đến số thuê bao 0983682159 của N hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá; N đồng ý bán. Khoảng 08 giờ ngày 19/7/2021, Gi điều khiển xe mô tô BKS 35B1-329.87 từ nhà vào thành phố T. Trên đường đi, Ninh nhờ Gi mua 01 thẻ cào điện thoại loại 100.000. Sau đó, Gi gặp N đi xe mô tô (không xác định được Biển kiểm soát) và được dẫn vào ngõ ngay cạnh cổng chào xã Q thuộc thôn T, xã Q, thành phố T được khoảng 300m thì Gi đưa cho N số tiền 200.000 đồng, N cầm tiền và đưa lại cho Gi 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chất tinh thể màu trắng rồi N điều khiển xe bỏ đi. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành tra cứu thông tin chủ thuê bao đăng ký số 0983682159 là Lê Thị H, sinh năm 1985, trú tại thôn Tr, phường Q, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa, có số căn cước công dân 038185001828; quá trình xác minh chị H xác định không đăng ký, sử dụng số thuê bao 0983682159 và không quen biết người nào tên N ở thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; vì vậy, không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S thu giữ của Nguyễn Trường Gi. Đây là chiếc điện thoại mà Nguyễn Trường Gi đã sử dụng liên lạc để mua ma túy cần tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 581/KLGĐ-PC09-MT. Mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,2790 gam là ma túy loại methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong niêm phong; 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi ni lon màu trắng kích thước (2 x 2,5)cm; 01 vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Trường Gi; 01 (một) sim Vietnammobile số thuê bao 0564746586, trên mặt sim có dãy số 8984050919 1034460333 cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với số tiền 27.000 đồng (hai mươi bẩy nghìn đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Trường Gi. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Trường Gi không liên quan đến hành vi phạm tội. Do vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Trường G là giấy tờ hợp pháp của Gi, không liên quan đến hành vi phạm tội; Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả lại cho Gi là đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu xanh - đen - bạc, BKS 35B1-329.87: quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Xuân Tr là anh trai của Gi, anh Tr cho Nguyễn Trường Gi mượn xe mô tô để đi lại, không biết Gi sử dụng xe để đi mua ma túy. Ngày 12/8/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại xe mô tô cho anh Tr là đúng quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Trường Gi phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường Gi 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 19 tháng 7 năm 2021.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu xám đã qua sử dụng số IMEI 355682074492824.

- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số 581/KLGĐ-PC09-MT. Vụ Nguyễn Trường Gi, sinh năm 1993 tại phường B, thành phố N, xảy ra ngày 19/7/2021 tại xã Q, thành phố T; mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,2790 gam là ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói trong niêm phong;

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi ni lon màu trắng kích thước (2 x 2,5)cm; 01 vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu.

+ 01 (một) vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Trường Gi.

+ 01 (một) sim Vietnammobile số thuê bao 0564746586, trên mặt sim có dãy số 8984050919 1034460333.

- Trả lại cho Nguyễn Trường Gi số tiền 27.000 đồng Những vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo giấy ủy nhiệm chi ngày 26 tháng 8 năm 2021 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 8 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3/Về án phí:

Buộc bị cáo Nguyễn Trường Gi phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2021/HS-ST ngày 17/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về