Bản án 67/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 67/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2020/TLST- HNGĐ, ngày 31 tháng 01 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2020/QĐST-HPT ngày 31/8/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 78, ấp T B, xã TT, huyện LV, tỉnh ĐT. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Võ Ngọc L, sinh năm 1980; địa chỉ: Số 262, ấp VL, xã VT, huyện LV, tỉnh ĐT. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện và tại phiên tòa, chị H là nguyên đơn trình bày:

Chị H và anh L chung sống năm 2009, không đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm 2012 thì mâu thuẫn, do không hợp nhau. Anh L đem con theo ở riêng đến nay.

Về nuôi con chung: Quá trình sống chung, có 01 con chung tên Võ Hữu Phước, sinh ngày 16/8/2011, hiện đang sống với anh L từ khi vợ chồng xa nhau đến nay.

Nay chị H xin ly hôn, con chung để anh L nuôi, chị H không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ không yêu cầu giải quyết.

- Anh L vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết không văn bản ý kiến gì dù nhận được văn bản tố tụng của Tòa án.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ giữa chị H và anh L là vợ chồng. Con chung để anh L tiếp tục nuôi dưỡng, chị H không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh L đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Anh L được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên xét xử lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, không lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung: [2.1] Về hôn nhân:

n.

Chị H và anh L chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết Xét quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L là tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn theo luật định, nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn và thực hiện theo nghi thức kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nay chị H yêu cầu ly hôn, anh L không ý kiến gì.

Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.” Tại Điều 14 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…”.

Từ Điều luật trên, xét chị H và anh L chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Do đó, đường lối giải quyết đối với trường hợp không đăng ký kết hôn thì không công nhận là quan hệ vợ chồng.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung, có 01 con chung tên Võ Hữu Phước, sinh ngày 16/8/2011, hiện đang sống với anh L từ khi vợ chồng xa nhau đến nay.

Nay chị H đồng ý con chung để anh L nuôi, chị H không cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, từ khi xa nhau, con do anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chứng minh anh L đủ điều kiện nuôi dưỡng con. Tòa án giao con cho anh L nuôi là phù hợp. Do anh L không có yêu cầu gì về việc cấp dưỡng cho con nên Tòa án không xem xét.

Chị H không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, anh L và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản: Chị H và anh L không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về nợ chung: Chị H và anh L không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị H xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 9, 14, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ giữa chị Nguyễn Thị Mỹ H với anh Võ Ngọc L là quan hệ vợ chồng.

2. Về nuôi con chung:

Anh Võ Ngọc L được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Võ Hữu Phước, sinh ngày 16/8/2011, hiện đang sống với anh L. Anh L không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Chị H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh L và các thành viên trong gia đình không được cản trở chị H thực hiện quyền này.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị Mỹ H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2018/0009120 ngày 07 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:67/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về