Bản án 67/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 67/2019/HSST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXXST-HS ngày ngày 01 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM THỊ BÍCH L, sinh năm 1978; tại Tây Ninh; trú tại: ấp LK, xã Long TT, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: thợ may; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ (đã chết) và bà Huỳnh Thị Đ; bị cáo có chồng là Thái Hoàng S (đã ly hôn) và 02 người con; tiền án, tiền sự: không có;

Nhân thân: Năm 2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày 04/01/2013. Chấp hành xong ngày 04/8/2014.

Bị cáo bị bắt từ ngày 03/9/2019 và bị tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa; nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Thị Bích L là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 10 giờ, ngày 03/9/2019, bị cáo L đến khu vực xã HT, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh mua 01 bịch ma túy của người tên Tân (không rõ nhân thân, lý lịch) với giá 300.000 đồng đem về sử dụng. Do bịch ny lon bị rách nên bị cáo L dùng 01 bịch ny lon khác và 02 đoạn ống hút màu xanh bỏ ma túy vào rồi cất giấu trong ví da màu nâu. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo L điện thoại nhờ anh Lê Văn KH chở đến nhà người bạn tên NH (không rõ nhân thân, lý lịch) tại xã TH, huyện Hòa Thành để chơi. Khi đi đến hẽm số 44, đường Nguyễn Văn L thuộc ấp TT, xã TH, huyện Hòa Thành thì bị lực lượng Công an huyện Hòa Thành kiểm tra phát hiện và bắt quả tang thu giữ 01 bịch nylon màu trắng hàn kín, 02 đoạn ống hút màu xanh được hàn kín bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong (Ký hiệu M).

Quá trình điều tra, bị cáo L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận giám định số 1308/KL-KTHS ngày 04/9/2019 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon hàn kín và 02 đoạn ống hút màu xanh hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; khối lượng 0,5385 gam.

Qua xác minh, bị cáo L không có tài sản nên không kê biên.

Đối với anh Lê Văn KH không biết, không giúp sức bị cáo L tàng trữ ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với người thanh niên tên T, tên NH hiện chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số: 76/CT-VKSHT ngày 26 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành đã truy tố bị cáo Phạm Thị Bích L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành giữ quyền công tố tại phiên tòa, trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Thị Bích L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị Bích L mức án từ 01 năm đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày: bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con bị bệnh tật và mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Thị Bích L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo Phạm Thị Bích L phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, vật chứng vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Phạm Thị Bích L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo có hành vi mua 0,5385 gam chất ma túy loại Methamphetamine về cất giữ bất hợp pháp để bản thân sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo Phạm Thị Bích L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[3.1]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, là nguyên nhân lây nhiễm căn bệnh HIV và phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo ý thức được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn sử dụng ma túy và bị nghiện, thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo mua ma túy về cất giấu để thỏa mãn nhu cầu sử dụng của bản thân, là nguyên nhân dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh (đi cai nghiện) trong thời hạn 02 năm, đã chấp hành xong nhưng vẫn tái nghiện. Cần có mức án thật nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3.2]. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3.3]. Do đó, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành đề nghị là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[4]. Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- 01 gói niêm phong ghi vụ số: 1308/KL-KTHS, có chữ ký giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Thị TD và dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tây Ninh là chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 bóp da màu nâu của bị cáo đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thị Bích L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Bích L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói niêm phong ghi vụ số: 1308/KL-KTHS, có chữ ký giám định viên Nguyễn Văn N, trợ lý giám định Nguyễn Thị TD và dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tây Ninh.

+ 01 bóp da màu nâu đã qua sử dụng.

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Thị Bích L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về