Bản án 67/2019/HS-ST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 14/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí - tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Lê Đình C, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1986 tại Q - Quảng Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: khu 7, phường P, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình H và bà Phạm Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 19/02/2004 tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2004 của Tòa án nhân dân huyện Y (nay là thị xã Q) xử 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án phúc thẩm số 45 ngày 06/4/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử y án sơ thẩm); ngày 30/9/2007 tại bản án hình sự sơ thẩm số 255 của Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; năm 2010, năm 2013, năm 2015 bị đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Quảng Ninh. Bị cáo bị tạm giữ ngày 17-02-2019 và tạm giam ngày 23-02-2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đinh Đức C, sinh năm 1994. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: tổ 3, khu 5B, phường V, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn H và ông Cao Văn R; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 16/02/2019, do muốn mua ma túy về sử dụng, C đi đến ngã tư cổng bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí, tại đây C gặp một người tên T và nhờ mua hộ ma túy, T đồng ý rồi gọi điện cho một người tên Th. Khi Thđến, C đưa cho T 500.000 đồng. Sau khi nhận tiền, T và Th cùng đi về phía đường Quốc lộ 10, còn C đứng chờ. Khoảng 30 phút sau T và Th quay lại và cả ba cùng đi đến khu vực tổ 8, khu L , phường Y, thành phố U. Tại đây, T đưa cho C: 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (5 x 8) cm, bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (5 x 8) cm chứa chất tinh thể màu trắng; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng dài khoảng 6,5 cm, đường kínhkhoảng 0,5 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, hai đầu ống bịt kín; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng dài khoảng 03 cm, đường kính khoảng 0,5 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, hai đầu ống bịt kín. Sau khi đưa ma túy cho C, T và Th bỏ đi.

Đến hồi 23 giờ 30 phút cùng ngày, tại tổ 8, khu L, phường Y, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Lê Đình C đã bị Tổ công tác Công an phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí phát hiện bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ tại túi áo khoác bên phải C đang mặc: 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (5 x 8)cm, bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (5 x 8)cm chứa chất tinh thể màu trắng; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng dài khoảng 6,5 cm, đường kính khoảng 0,5 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, hai đầu ống bịt kín; 01 ống nhựa màu vàng sọc trắng dài khoảng 03 cm, đường kính khoảng 0,5 cm, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, hai đầu ống bịt kín. Ngoài ra, còn tạm giữ của Cương: 01 xe mô tônhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu xanh trắng, BKS 14Y1 – 012.XX; 01 túi du lịch bằng vải nhựa màu đỏ đen, bên trong đựng: 01 ống thủy tinh, một đầu thẳng dài khoảng 08cm, đoạn cuối cong gắn bầu tròn dài khoảng 06cm; 01 chai nhựa màu trắng, loại 150ml, nắp màu đỏ có 02 lỗ, một lỗ gắn 01 đoạn ống nhựa dài khoảng 35cm; 11 bơm kim y tế chưa qua sử dụng; 17 ống nhựa màu xanh sọc trắng, dài khoảng 18cm, đường kính 0,5cm; 01 giấy phép lái xe và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Đình C; số tiền 3.960.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A7, màu đen, kèm sim trong máy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 301, màu đen, kèm sim trong máy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 110i, màu trắng; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 150, màu đen, kèm sim trong máy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 6300, màu vàng, kèm sim trong máy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 6300, màu đỏ.

Tại Bản kết luận giám định số: 252, ngày 20/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật kí hiệu M1 thu giữ của Lê Đình C gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lƣợng: 1,874 gam (một phẩy tám bảy bốn gam). Mẫu vật kí hiệu từ M2, M3 thu giữ của Lê Đình C gửi giám định là ma túy; Loại: Heroine; Khối lƣợng: 0,529 gam (không phẩy năm hai chín gam).

Tại bản Cáo trạng số 63/CT-VKSUB ngày 13 - 5- 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Lê Đình C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và thừa nhận bị truy tố đúng người, đúng tội. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu xanh trắng, BKS 14Y1 – 012.XX bị cáo khai nhận mượn của một người bạn tên là H ở Q, bị cáo không rõ nguồn gốc của chiếc xe này.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – anh Đinh Đức C vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình điều tra đã xác minh anh Chính là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc Yamaha Jupiter, màu xanh trắng do bị cáo điều khiển, anh C đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì thêm.

Người chứng kiến anh Nguyễn Văn H và ông Cao Văn R vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong hồ sơ về thời gian, địa điểm và vật chứng thu giữ của vụ án (tại các bút lục từ 40 đến 48)

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Đình C mức hình phạt từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 – Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 – Bộ luật Hình sự. Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong là ma túy hoàn lại sau giám định, 01 ống thủy tinh, 01chai nhựa, 11 kim tiêm, 17 ống nhựa. Trả lại bị cáo 3.960.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Viện kiểm sát. Tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai người chứng kiến và nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 23 giờ 30 phút ngày 16/02/2019, tại tổ 8, khu L, phường Y, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Lê Đình C bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi hành vi tàng trữ để sử dụng 2,403 gam (hai phẩy bốn không ba gam) ma túy, trong đó gồm 0,529 gam (không phẩy năm hai chín gam) ma túy loại Heroine và 1,874 gam (một phẩy tám bảy tư gam) ma túy loại Methamphetamine.

Các chất ma túy thu giữ được của bị cáo là Methamphetamine, Heroine được quy định trong cùng một điểm của khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên áp dụng quy định Điều 4 của Nghị định 19/2018/NĐ-CP của Chính phủ“Quy định về việc tính tổng khốilượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự 2015”, tính như sau 1,874 gam + 0,529 gam = 2,403 gam. Đối chiếu tổng khối lượng của 02 chất ma túy này với quy định điểm c khoản 1; điểm g khoản 2; điểm b khoản 3; điểm b khoản 4 Điều 249Bộ luật Hình sự năm 2015, thì trường hợp này tổng khối lượng của 02 chất ma túy tươngđương với khối lượng Heroine và Methamphetamine quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật Hình sự 2015 và được xác định thuộc điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 “i. Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy đo tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là cố ý, thuộc trường hợp nghiêm trọng và đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

2.2 Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thấy rằng: bị cáo nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái với quy định pháp luật nhưng do nghiện ma túy nên vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội để có được ma túy để sử dụng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử vì có hành vi vi phạm pháp luật và nhiều lần được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng không đạt kết quả. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: chiếc xe Yamaha Jupiter, màu xanh trắng do bị cáo điều khiển đã được trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đinh Đức C. Anh C không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[5]. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Đối với vật chứng của vụ án không liên quan đến hành vi phạm tội đã được Cơquan cảnh sát điều tra giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp trong quá trình điều tra.

Đối với biển kiểm soát 14Y1-012.48, chưa xác định được nguồn gốc, Cơ quan điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với những vật chứng, tài sản đang được Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí quản lý xử lý như sau:

+ 01 (một) phong bì niêm phong (bên trong đựng số ma túy hoàn lại sau giám định) là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 ống thủy tinh, 01 chai nhựa, 11 bơm kim tiêm, 17 ống nhựa là vật chứng không có giá trị, không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 3.960.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội được trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đình C 36 (ba mƣơi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 17/02/2019.

2. Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ:

Áp dụng: khoản 1; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong (bên trong là ma túy hoàn lại sau giám định); 01 ống thủy tinh, 01 chai nhựa, 11bơm kim tiêm, 17 ống nhựa.

- Trả lại bị cáo số tiền 3.960.000đồng (ba triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng và đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng, biên bản giao nhận tiền tang vật ngày 13 tháng 5 năm 2019 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Khoản 1 Điều 21,điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Đình C phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 – Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 14/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về