Bản án 67/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 01/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01/4/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2019/HSST ngày 11/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1972, Tại tỉnh: Hà Tĩnh. Trú tại: Thôn x, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nguyễn Xuân T (đã chết). Con bà: Hà Thị N - sinh năm 1945. Bị cáo có vợ là Lê Thị H - sinh năm 1975 và có 02 con (con lớn sinh năm 1996; con nhỏ sinh năm 1998). Tiền sự: Không. Tiền án: 02 tiền án. (Ngày 30/9/2015, bị Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 310/HSST/2015. Ngày 30/9/2016 bị Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng về tội Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có theo Bản án số 310/HSST. Bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo. Ngày 25/5/2017, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm theo Bản án số 150/2017/HSST. Ngày 09/01/2018, bị cáo chấp hành xong và về địa phương sinh sống).

Bị cáo bị bắt và tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk từ ngày 20/12/2018 cho đến nay_Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Lê Thái H – sinh năm: 1972 (Vắng mặt)

Trú tại: Tổ dân phố x, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T là đối tượng nghiện chất ma túy loại Heroine. Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 19/12/2018, T một mình đón xe buýt từ xã T, huyện C, tỉnh Đắk Lắk lên thành phố B để mua ma tuý về sử dụng. Khi đến khu vực Siêu thị Coopmart thuộc đường T, thành phố B, T xuống xe và đi bộ vào trong đường hẻm số xx đường N, phường L, thành phố B trước một ngôi nhà được rào kín, đưa số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) qua một khe cổng thì được người bên trong đưa lại cho 01 (một) gói giấy bạc chứa ma túy. Mua được ma tuý, T đi bộ vào trong khu vực nghĩa địa cuối đường J, phường L, thành phố B sử dụng hết số ma tuý trên và ngủ lại trong khu vực nghĩa địa. Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 20/12/2018, T tiếp tục vào trong hẻm số xx đường N để mua ma tuý. T đưa số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) qua một khe cổng thì được người phía trong đưa lại cho 01 (một) gói giấy bạc bên trong có chứa chất rắn màu trắng. Sau khi mua được ma tuý, T đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực ngã tư đường Đ với đường N, phường L, thành phố B thì T bị lực lượng Công an phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk kiểm tra phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trên bàn tay trái của T 01 gói giấy bạc có chứa chất ma túy và đã được niêm phong theo quy định của pháp luật.

Tại bản Kết luận giám định số 1140/GĐMT-PC09 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng cục màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma tuý loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,1707 gam.

Tại bản Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 08/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị HĐXX:

Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù. Các biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 0,1284 gam Heroin còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 1140/GĐMT – PC09 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án.

Bị cáo không bào chữa và tham gia tranh luận gì. Chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo, xét thấy: Nguyễn Văn T là đối tượng thuộc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích. Xong vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 19/12/2018, tại khu vực ngã tư đường Đ – N thuộc phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nguyễn Văn T tiếp tục thực hiện hành vi cất giữ 01 gói nylon chứa chất ma túy loại Heroin có tổng khối lượng 0,1707 gam, mục đích để sử dụng là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ….

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) …

o) Tái phạm nguy hiểm.”

Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Đồng thời, còn là một trong những nguyên nhân gây nên các căn bệnh xã hội, các loại tội phạm khác và gây ảnh hưởng đến trật tự trị an địa phương. Bị cáo nhận thức được mọi hành vi tàng trữ chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm. Xong xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Bị cáo phạm tội với tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm. Do đó, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới đảm bảo phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước.

[4] Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho T nhưng chưa xác minh được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột tách ra để điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,1284 gam Heroin còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 1140/GĐMT – PC09 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án và là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Văn T 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 20/12/2018.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,1284 gam Heroin còn lại sau giám định được niêm phong tại gói số 1140/GĐMT – PC 09 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột. Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về