Bản án 67/2018/HSST ngày 26/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 67/2018/HSST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 mở phiên tòa công khai sơ thẩm tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu để xét xử vụ án hình sự thụ lý số 71/2018/HSST ngày 16 tháng 10 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2018/QĐXXST-HS ngày 14/11/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng A N; Sinh năm: 1975 tại tỉnh Lai Châu; Tên gọi khác: Vàng Văn N; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: bản Chin Chu Chải, xã Sa Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Học vấn: 0/12; Dân tộc: Giấy; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vàng Văn P (đã chết) và bà Hoàng Thị M (đã chết); bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Có vợ là Phan Thị M1 sinh năm 1981 và có 01 con sinh năm 2009; Tiền án: 01 tiền án, Bản án số 45/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Toà án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, ngày 08/2/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương, đã thực hiện xong nghĩa vụ về án phí, hiện chưa được xoán án tích; tiền sự: Không; Nhân thân: xấu, 03 lần bị Toà án xử phạt gồm: Bản án số 04/HSST ngày 08/10/2003 của Toà án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bản án số 40/2010/HSST ngày 11/6/2010 của Toà án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bản án số 45/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Toà án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bị bắt tạm giữ từ ngày 20/6/2018 cho đến ngày 29/6/2018 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cưtrú, hiện bị cáo tại ngoại (có mặt).

* Người làm chứng: Thào Văn Đ sinh năm: 1985

Trú tại: bản Chin Chu Chải, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/6/2018 Tổ công tác Phòng PC47 Công an tỉnh Lai Châu nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà Vàng A N (Sinh năm: 1975; Trú tại: bản Chin Chu Chải, xã Sa Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu) có nhiều đối tượng tụ tập sử dụng trái phép chất ma tuý. Tổ công tác triển khai lực lượng đến nhà N xác minh, khi đến nơi N đang ngồi trong nhà, trong nhà vệ sinh có người. Khi phát hiện tổ công tác hai người trong nhà vệ sinh bỏ chạy, tổ công tác kịp thời khống chế được một đối tượng, sau đó đối tượng khai nhận tên là Thào Văn Đ (sinh năm 1985; trú tại bản Chin Chu Chải, xã Sa Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu); Đ cùng đối tượng bỏ chạy đang sử dụng ma tuý (chích heroine) trong nhà vệ sinh. Tổ công tác đưa Đ vào nhà N làm rõ; Khi làm việc N khai có tàng trữ heroine trong thùng rác dưới bếp, N đưa tổ công tác đến nơi cất giấu, tổ công tác thu giữ 01 gói được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh, N khai đó là heroine của N tàng trữ để sử dụng trước sự chứng kiến của Đ. Tổ công tác lập biên bản đưa N và Đ cùng tang vật về trụ sở làm rõ.

Tại cơ quan điều tra N khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 19/6/2018 N một mình đi ra chợ San Thàng, thành phố Lai Châu thuê xe ôm (của người không biết tên) lên xã Bản Lang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu tìm mua heroine để sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Khoảng 19 giờ cùng ngày thì tới Bản Lang, lúc đó trời tối nên N không biết khu vực đó là bản nào, N gặp người đàn ông tên P (không biết họ và ở đâu) khoảng 25 tuổi và đặt vấn đề mua heroine, P nhất trí và hỏi N mua bao nhiêu, N bảo mua 900.000VNĐ. P đi đâu đó khoảng 15 phút quay lại đưa cho N 01 gói được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh, nhận gói ma tuý N đưa cho P 900.000VNĐ, sau đó P đi đâu N không biết còn N bắt xe ôm về nhà. Về đến nhà N giấu gói ma tuý trong thùng rác với mục đích để sử dụng dần, N đã sử dụng 3 đến 4 lần (Nánh không nhớ rõ). Khoảng 18 giờ ngày 20/6/2018 N đang ở nhà thì có bố vợ là Phan Văn X đến nhà nhờ N chữa răng, được khoảng 10 phút sau có H (không biết tuổi và địa chỉ) là bạn của N đến chơi và nằm trên giường của N. Được khoảng 10 phút thì có Thào Văn Đ (cháu họ của N) đến gọi N ra ngoài cửa hỏi có heroine bán cho 200.000VNĐ, N từ chối và bảo không có. Sau đó N tiếp tục chữa răng cho bố vợ, còn Đ cũng đi vào nhà, ngồi sau lưng N, Đ và H làm gì N không biết. Được một lúc thì Cơ quan điều tra đến, Đ và H bỏ chạy, cơ quan điều tra khống chế được Đ, lúc đó N mới biết H và Đ sử dụng ma tuý trong nhà vệ sinh nhà mình. Khi cơ quan điều tra vào nhà, N tự giác khai nơi cất giấu heroine và cơ quan điều tra thu giữ được tang vật.

Tại cơ quan điều tra Đ khai nhận: Khoảng 18 giờ 15 phút, ngày 20/6/2018, Đ một mình đến nhà N với mục đích tìm mua heroine để sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Đến nhà N, Đ thấy có 3 người, N đang chữa răng cho một người và một người nữa nằm trên giường sau lưng N. Sau đó Đ gọi N ra ngoài cửa nói nhỏ vào tai N, hỏi mua heroine như N đã khai, N nói không có và vào tiếp tục chữa răng Đ cũng vào ngồi sau lưng N. Người đàn ông nằm trên giường hỏi Đ đã nói chuyện gì với N, Đ nói là hỏi mua heroine nhưng N không có, người đó hỏi lấy bao nhiêu, đưa tiền để người đó lấy cho; Đ đưa cho người đó 200.000VNĐ (02 tờ 100.000VNĐ) người đó kéo ri đô che khuất phía sau lưng N rồi lấy gói heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng đưa cho Đ (lúc đó N không biết) sau đó Đ tự ý đi vào nhà vệ sinh dùng bơm kim tiêm và nước cất mang theo sử dụng heroine vừa mua được bằng hình thức chích, sử dụng xong Đ vứt bơm kim tiêm đi (không rõ vứt đi hướng nào) và sau đó cơ quan điều tra phát hiện bắt giữ. Khi cơ quan điều tra đưa vào nhà không thấy người đàn ông chữa răng và người bán ma tuý đâu chỉ còn N ở trong nhà, được cơ quan điều tra vận động N đã tự giác khai nơi cất ma tuý và đưa cơ quan điều tra đến thu giữ tại thùng rác dưới bếp nhà N, Đ được chứng kiến.

Đối với Thào Văn Đ, ngoài lời khai của Đ, cơ quan điều tra không thhu thập được chứng cứ nào khác nên không có cơ sở xử lý.

Đối với người bán ma tuý cho N, do N không biết họ và địa chỉ của người đó, mặt khác trời tối N không biết khu vực đó thuộc bản nào, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý.

Đối với Phan Văn X, theo lời khai của N khi Đ đến hỏi mua ma tuý, N đang chữa răng cho ông X, tuy nhiên khi Đ và H sử dụng ma tuý trong nhà vệ sinh ông X đã ra về, khi Cơ quan điều tra đến thì ông X đã ra về. Cơ quan điều tra xác minh và triệu tập ông X nhưng hiện tại ông X không có mặt tại địa phương nên không có căn cứ giải quyết.

Ngày 21/6/2018 Cơ quan điều tra tiến hành mở niêm phong, cân tịnh trọnglượng (BL76-78); Tang vật thu giữ của N có khối lượng 0,22gam, Hội đồng nhất trí lấy 0,09gam làm mẫu gửi giám định; Số còn lại 0,13gam được niêm phong trong một phong bì công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành.

Kết luận giám định số 307/GĐ-KTHS ngày 26/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu (BL81) đã kết luận: 01 (một) mẫu chất bột khô vón cục màu trắng thu giữ của Vàng A N gửi giám định là ma tuý, loại: Heroine.

Ngày 09/7/2018 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu căn cứ đề nghịchuyển vụ án của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu, quyết địnhchuyển vụ án hình sự cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKSTP ngày 15/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (BL113-116) đã truy tố Vàng A N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo nghiện ma tuý nên vẫn cố tình thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Vàng A N đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo biết tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 1 Điều 106/BLTTHS; Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù, khấu trừ thời hạn tạm giữ, thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án; Xử lý vật chứng; Miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Phòng PC47 Công an tỉnh Lai Châu, Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên; Của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng khác của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: 18 giờ 30 phút ngày 20/6/2018 tại nhà mình (bản Chin Chu Chải, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu) Vàng A N đã có hành vi tàng trữ 0,22gam heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng cho nhu cầu của bản thân, thì bị kiểm tra phát hiện bắt giữ. Điều 249/BLHS quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) … Heroine .. có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam.

Bị cáo ý thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, tuy nhiên để sử dụng cho nhu cầu của bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm sự độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, là mầm mống làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự an ninh trong quần chúng nhân dân.

[3] Nhân thân bị cáo: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, không được đi học, ở nhà làm ruộng, lớn lên xây dựng gia đình. Có nhân thân: xấu, 03 lần bị Toà án xử phạt gồm: Bản án số 04/HSST ngày 08/10/2003 của Toà án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bản án số 40/2010/HSST ngày 11/6/2010 của Toà án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bản án số 45/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Toà án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Bị cáo chấp hành xong bản án số 45 ngày 24/9/2015 nhưng chưa được xoá án tích, lại tiếp tục phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, khi bị phát hiện bị cáo tự giác chỉ và giao nộp số ma tuý cất giữ, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS đối với bị cáo; Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS “Tái phạm”;

Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình, do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và cho gia đình.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 điều 249/BLHS quy định: Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tuy nhiên bị cáo nghiện, không có tài sản riêng mặt khác còn phải chấp hành hình phạt tù nên HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Vật chứng của vụ án: 0,22gam heroine đã trích gửi đi giám định không hoàn lại 0,09gam, còn lại 0,13gam đã được niêm phong cần tịch thu tiêu huỷ.

 [6] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ cần được chấp nhận.

[7] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016

[1] Tuyên bố bị cáo Vàng A N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

 [2] Xử phạt bị cáo Vàng A N 20 (hai mươi) tháng tù, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/6/2018 cho đến ngày 29/6/2018, còn phải thi hành tiếp 19 tháng 20 ngày. Thời hạn tù tính từ ngày vào trại chấp hành án.

[3] Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

[4] Tịch thu: 0,22gam heroine đã trích gửi đi giám định không hoàn lại 0,09gam, số còn lại 0,13gam đã được niêm phong để tiêu huỷ.

Vật chứng trên đang được lưu giữ tại kho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lai Châu. Tình trạng vật chứng như biên bản giao giữa Công an và Chi cục THA dân sự thành phố Lai Châu hồi 14 giờ 30 phút ngày 18/10/2018.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/HSST ngày 26/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:67/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về