Bản án 671/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 671/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương T B; địa chỉ: Số -- KP B, phường C, thị xã D, tỉnh E.

- Bị đơn: Ông Nguyễn T N; địa chỉ: Số -- đường M, phường N, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Bà Trương T B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà quen biết ông N năm 2004, hai bên tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, tổ chức đám cưới và đã đăng ký hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/12/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung số tại nhà chồng, địa chỉ: đường M, phường N, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015. Nguyên nhân mâu thuẫn là vì ông N ghen tuông vô cớ, hai vợ chồng không có tiếng nói chung; thêm vào đó là mâu thuẫn với gia đình nhà chồng vì tranh chấp tài sản. Mâu thuẫn trầ m trọng từ tháng 2 năm 2018, khi ông N đánh và đuổi bà ra khỏi nhà. Bà đã phải dọn nhà ra ở riêng, đi làm công nhân và sinh sống tại tỉnh E. Từ đó, hai người sống ly thân cho tới nay. Trong thời gian ly thân thì ông N có đề nghị bà về chung sống nhưng bà không đồng ý vì mâu thuẫn quá lớn, thường xuyên bị bạo hành gia đình. Hiện nay, bà xác định không còn tình cảm vợ chồng, cảm thấy hôn nhân không hạnh phúc và yêu cầu ly hôn với ông N để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà và ông N có hai con chung là Nguyễn T T M, sinh ngày --/--/2005 và Nguyễn T K A, sinh ngày --/--/2009. Hai con đang ở với ông N từ lúc bà dọn ra ở riêng. Do không có điều kiện chăm sóc, không có chỗ ở ổn định nên khi ly hôn bà yêu cầu giao hai con cho ông N trực tiếp nuôi. Thu nhập của ông N theo bà biết khoảng 8 triệu đồng và hiện đang sinh sống ổn định tại căn nhà thừa kế của cha mẹ ruột. Bà có thu nhập trung bình khoảng 7 triệu một tháng, khi có tiền dư thì cũng góp khoảng 2 triệu một tháng lo tiền học phí, quần áo cho hai con. Do đó, việc cấp dưỡng cho con do hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà và ông N không có tài sản chung hay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là Ông Nguyễn T N đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Trong buổi làm việc tại Tòa án ngày 26/4/2019, hai trẻ M và A đều có nguyện vọng ở với ông N.

Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được vì ông N đã được Tòa án thông báo, triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ hai lần liên tiếp mà vẫn cố tình vắng mặt. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/7/2019, bà B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Bà Trương T B khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với ông Nguyễn T N; theo kết quả xác minh ngày 08/4/2019 của Công an phường N, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị đơn đang cư trú tại quận Tân Phú. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Phú theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai, ông N vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, bà B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự và Giấy chứng nhận kết hôn Số --, đăng ký ngày 29/12/2004 tại Ủy ban nhân dân phường N, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà B và ông N là hợp pháp.

[4] Xét yêu cầu ly hôn: Căn cứ vào lời khai của bà B, Hội đồng xét xử nhận thấy vợ chồng bà B và ông N phát sinh mâu thuẫn đã lâu nhưng không thể hàn gắn được; giữa hai người có nhiều bất đồng trong cuộc sống dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Mặt khác, ông bà sống ly thân từ năm 2017, giữa hai người đã không còn đời sống chung của vợ chồng và mỗi người đều có cuộc sống riêng, không còn yêu thương, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Bị đơn là ông N vắng mặt khi được triệu tập làm việc, hòa giải tại Tòa án, cũng như tại phiên tòa. Qua đó, Hội đồng xét xử nhận thấy ông N thể hiện thái độ bỏ mặc kết quả giải quyết của Tòa án, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Theo kết quả xác minh tại Công văn số 41/TA-Q.TP ngày 02/5/2019 thì Hội liên hiệp phụ nữ phường N, quận Tân Phú đã xác minh mâu thuẫn gia đình như sau: Bà B đã bỏ đi khỏi địa phương từ lâu. Trong quá trình chung sống có xảy ra mâu thuẫn nhưng không gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hội cũng không nhận được yêu cầu giúp đỡ từ bà B. Ông N và bà B có 02 con chung hiện đang sống cùng ông N tại Số -- đường M, phường N, quận Tân Phú. Như vậy, kết quả xác minh mâu thuẫn gia đình của Hội liên hiệp phụ nữ phường N, quận Tân Phú là phù hợp một phần với lời khai của bà B.

Từ những lý do vừa nêu, xét thấy tình trạng hôn nhân của bà B và ông N đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà B theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Bà B và ông N có hai con chung là Nguyễn T T M, sinh ngày --/--/2005 và Nguyễn T K A, sinh ngày --/--/2009. Khi ly hôn, bà B yêu cầu giao hai con chung cho ông N trực tiếp nuôi. Xét thấy, hiện nay con chung đang ở với ông N nên có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà B, tiếp tục giao con chung cho ông N trực tiếp nuôi để không làm xáo trộn cuộc sống, tâm lý của trẻ.

Việc cấp dưỡng cho con chung do bà B và ông N tự thỏa thuận; bà B, ông N không có yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[6] Về tài sản: Bà B xác định không có tài sản chung hay nợ chung, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng do nguyên đơn là bà B chịu.

[8] Các kiến nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ: Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Điều 36, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 2 Điều 227 và Điều 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 57, 58, 59, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

Chp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trương T B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương T B được ly hôn với ông Nguyễn T N.

2. Về con chung: Bà B và ông N có hai con chung là Nguyễn T T M, sinh ngày --/--2005 và Nguyễn T K A, sinh ngày --/--/2009. Khi ly hôn, giao hai con chung cho ông N trực tiếp nuôi.

Việc cấp dưỡng cho con chung do bà B và ông N tự thỏa thuận; bà B, ông N không có yêu cầu giải quyết việc cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Bà B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người đang trực tiếp nuôi con.

Vì lợi ích của con khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

3. Về tài sản chung: Bà B xác định không có tài sản chung hay nợ chung, không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng do bà B chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012416 ngày 18/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà B đã nộp đủ án phí.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bà B, ông N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 671/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:671/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về