Bản án 667/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 667/2020/HS-PT NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 591/2020/HSPT ngày 31 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn D do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 114/2020/HSST ngày 17/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Th, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn D, sinh năm 2000 tại Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và địa chỉ cư trú thôn La Đồng, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp không; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc Dao; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ng và con bà Đặng Thị Ph; tiền án, tiền sự không; bị cáo tạm giữ từ ngày 06/01/2020 đến ngày 07/01/2020. Hiện bị cáo tại ngoại, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; vắng mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vũ Minh Tiến – Luật sư Công ty Luật hợp danh V.I.P thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

Bị hại không kháng cáo: Công ty M; địa chỉ Tòa nhà Artemis, số 3 Lê Trọng Tấn, phường Kh, quận Th, thành phố Hà Nội; đại diện theo ủy quyền ông Tống Văn Đài; vắng mặt do không triệu tập.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

1. Anh Nguyễn C, sinh năm 1973, trú tại Tổ 38 Hoàng Văn Thụ, quận H, thành phố Hà Nội; vắng mặt do không triệu tập 2. Anh Vũ Thế Tr, sinh năm 1970; trú tại Căn 01 T23 chung cư Artemis, số 3 Lê Trọng Tấn, phường Kh, quận Th, thành phố Hà Nội; vắng mặt do không triệu tập

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Th và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân quận Th, Hà Nội thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày 26, 27 tháng 12/2019, Nguyễn Văn D đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Th. Cụ thể:

Vụ thứ nhất:

Khoảng tháng 5/2018, Nguyễn Văn D ký hợp đồng với Công ty M để làm bảo vệ tại tòa nhà Artemis, số 3 Lê Trọng Tấn, Khương Mai,Thanh Xuân, Hà Nội, đến tháng 8/2018 thì xin nghỉ việc. Thời gian làm bảo vệ tại đây, D phát hiện khu vực tầng hầm gửi xe có nhiều sơ hở trong việc trông giữ xe nên D nảy sinh ý định quay lại tòa nhà Artemis để trộm cắp. Khoảng 22 giờ ngày 26/12/2019, D đón xe ôm đến chung cư Artemis, đi thang máy xuống hầm B3, tại đây D quan sát thấy có 01 xe mô tô Honda Little Cub, màu vàng đeo BKS: 29AA-067.28 dựng gần cột D05 hầm B3. D đi đến dắt chiếc xe vào trong thang máy lên hầm B1 rồi dắt xe theo hướng ngược lên đường xuống của hầm để tránh bảo vệ phát hiện. Sau khi đưa chiếc xe ra ngoài D gọi một người xe ôm Grab thuê đẩy chiếc xe về cất tại phòng trọ của D tại nhà số 2 ngõ 204 Kim Giang, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội. Đến khoảng 10 giờ ngày 27/12/2019, D tháo BKS 29AA-067.28 rồi dắt chiếc xe trên ra quán sửa xe máy của anh Cung Ngọc S thay ổ khóa điện xe với giá 150.000 đồng. Tuy nhiên khi thay xong ổ khóa điện xe vẫn không khởi động được nên D dắt chiếc xe mô tô đi đến khu vực đô thị mới Kim Văn - Kim Lũ đường Nguyễn Xiển, Hoàng Mai, Hà Nội bỏ chiếc xe lại rồi đi về.

Chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Little Cub, màu vàng, BKS: 29AA-067.28, số khung: AA014026934, số máy: AA02E1028303 thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn C. Công an quận Th đã dẫn giải D đến nơi D để chiếc xe, nhưng quá trình kiểm tra không phát hiện thu giữ được. Cơ quan CSĐT Công an quận Th ra thông báo truy tìm vật chứng đối với chiếc xe mô tô trên nhưng đến nay vẫn chưa thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự, D đã tự nguyện nộp số tiền 80.000.000 đồng là tiền giá trị xe và tiền tổn thất do không có xe đi lại để Công ty M trao trả lại cho anh Nguyễn C, anh Cảnh đã nhận lại đủ tiền, không có yêu cầu bồi thường về dân sự. Công ty M đã có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho D.

Vụ thứ 2:

Khoảng 22h ngày 27/12/2019, D đi xe ôm đến chung cư Artemis rồi xuống hầm chung cư để trộm cắp tài sản. Khi đi đến cột B05 - Hầm B3, D thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Cupthai HD50, màu trắng, BKS: 98AA-006.38, không có gương chiếu hậu, không khóa cổ, khóa càng. D dắt chiếc xe trên đi vào thang máy rồi đi lên hầm B1 đi ngược đường xuống ra khỏi hầm để tránh bảo vệ phát hiện. Sau khi đưa chiếc xe ra ngoài D gọi xe ôm đẩy xe mô tô về cất ở phòng trọ. Đến khoảng 10 giờ ngày 28/12/2019, D tháo BKS: 98AA-006.38 và lắp BKS 29AA-067.28 (của chiếc xe mô tô D đã trộm cắp ngày 26/12/2019) rồi mang ra quán sửa xe của anh Trần Văn Tú thay ổ khóa điện của xe với giá 300.000 đồng rồi đi xe về phòng trọ. D sử dụng chiếc xe mô tô trên làm phương tiện đi lại hàng ngày đồng thời vứt BKS 98AA- 006.38 tại đường Kim Giang, Đại Kim, Hoàng Mai, Hà Nội. Hiện chiếc BKS trên không thu hồi được.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Cupthai HD50, màu trắng, BKS: 98AA-006.38 thuộc quyền sở hữu của chị Hà Thu Thảo. Chị Thảo đã sang CHLB Đức định cư nên đã giao chiếc xe cho anh Vũ Thế Tr (sinh năm 1970 trú tại tòa nhà Artemis, số 3 Lê Trọng Tấn, Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội) quản lý sử dụng.

Ngày 07/01/2020, anh Nguyễn C và Vũ Thế Tr đã làm đơn trình báo đến Công an phường Kh, Thanh Xuân, Hà Nội về việc bị mất cắp tài sản. Công an phường Kh đã thu thập camera an ninh toà nhà Artemis. Ông Tống Văn Đài là chỉ huy trưởng lực lượng an ninh của tòa nhà Artemis và một số bảo vệ nhận dạng Nguyễn Văn D chính là đối tượng đã dắt hai chiếc xe mô tô ra khỏi toà nhà.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Th đã thu giữ của Nguyễn Văn D chiếc xe mô tô nhãn hiệu CUPTHAI HD50, màu trắng, số khung: B3L1AA034713, số máy: 139FMB034713 trả lại cho anh Vũ Thế Tr. Anh Trung đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG ngày 05/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận Th xác định:

- 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA LITTLE CUB, màu vàng, biển số: 29AA- 067.28, số khung: AA014026934, số máy: AA02E1028303, đã qua sử dụng có giá là 30.000.000 đồng.

- 01 xe môtô nhãn hiệu CUPTHAI HD50, màu trắng, biển số: 98AA-006.38, số khung: B3L1AA034713, số máy: 139FMB034713, đã qua sử dụng có giá là 3.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản D trộm cắp là 33.000.000 đồng Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2020/HSST ngày 17/6/2020 của Tòa án nhân dân quận Th, thành phố Hà Nội đã xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 06/01/2020 đến ngày 07/01/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/6/2020, bị cáo Nguyễn Văn D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

 Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của người bị hại; biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Trong 2 ngày 26, 27/12/2019, bị cáo thực hiện liên tiếp 02 vụ trộm cắp tài sản, trị giá 33.000.000 đồng. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; đã bồi thường khắc phục hậu quả và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết mới nên không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên hợp lệ được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giám nhẹ hình phạt nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo.

Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của người bị hại; biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Trong 02 ngày 26/12/2019 và 27/12/2019, tại tầng hầm B3 tòa nhà Artemis quận Th, Hà Nội, Nguyễn Văn D đã thực hiện 2 vụ trộm cắp tài sản là 02 chiếc xe mô tô Honda Little Cub, màu vàng, BKS: 29AA-067.28 của anh Nguyễn C có trị giá 30.000.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Cupthai HD50, màu trắng, BKS: 98AA-006.38 của anh Vũ Thế Tr có trị giá 3.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Văn D đã trộm cắp là 33.000.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn Thủ đô. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, biết rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện liên tiếp 02 vụ trộm cắp tài sản. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết mới nên không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định của pháp luật, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về án phí: Bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm, xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 06/01/2020 đến ngày 07/01/2020.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH 12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Án phí, Lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 08/9/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 667/2020/HS-PT ngày 08/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:667/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về