Bản án 200/2017/HSPT ngày 21/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 200/2017/HSPT NGÀY 21/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 162/2017/HSPT ngày 06/7/2017 đối với bị cáo Nguyễn Quốc T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 203/2017/HSST ngày 25/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố B.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Quốc T, sinh năm 1992 tại Nghệ An.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 7, xã N, huyện L, tỉnh Nghệ An. Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Không.

Con ông Nguyễn Quốc L, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1953.

Vợ là Hồ Thị N, sinh năm 1991 và có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam ngày 17/02/2017. Có mặt.

NHẬN THẤY

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 16/02/2017, Nguyễn Quốc T cùng một người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) rủ nhau đi trộm cắp xe môtô bán lấy tiền chia nhau. Sau đó, người thanh niên này điều khiển xe môtô chở bị cáo T đến khu vực phường L, thành phố B. Khi đi đến tiệm tạp hóa của anh Đào Minh S, ngụ tại tổ 1, khu phố 6, phường L, thành phố B thì cả hai phát hiện phía trước tiệ có 01chiếc xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 17B8-150.66 của chị Nguyễn Thị H là khách đến mua hàng nên cả hai quyết định chiếm đoạt tài sản này. Để thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo T đứng bên ngoài cảnh giới còn người thanh niên đi cùng dùng đoản mở khóa điện xe môtô của chị H rồi điều khiển phương tiện này đi về hướng đường Bùi Văn H thuộc phường T, thành phố B. Khi phát hiện tài sản bị mất chị H liền sử dụng hệ thống chống trộm làm xe môtô tắt máy và hú còi báo động. Khi bị rượt đuổi, bị cáo T điều khiển xe của chị H còn người thanh niên đi cùng điều khiển xe môtô của mình và dùng chân đẩy xe của chị H đi. Tuy nhiên, khi cả hai đi đến cổng khu Công nghiệp A thì bị cáo T bị Tổ tuần tra Công an tỉnh Đồng Nai bắt, chiếc xe môtô mang biển số 17B8-150.66 của người bị hại được thu giữ và giao Công an phường L xử lý, riêng người thanh niên đi với bị cáo đã điều khiển xe môtô không rõ biển số chạy thoát.

Vật chứng vụ án: 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha-Sirius, biển số 17B8- 150.66 đã giao trả cho chị H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng xanh, số Imei 353198/03/993986/3; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar màu đen, số Imei 359440226384670 của bị cáo T; 02 chìa khóa xe máy nhãn hiệu Yamaha đã được mài mỏng hai cạnh thu giữ trong người của bị cáo; 01 đoản hình chữ T đã được mài dẹp 01 đầu..

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/TCKH-HĐĐG ngày 20/02/2017, của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha - Sirius, biển số 17B8-150.66 có giá trị là 18.105.000đ.

Tại bản án sơ thẩm số 203/2017/HSST ngày 25/5/2017, Tòa án nhân dân thành phố B quyết định: 

Áp dụng khoản 1 Điều 138, các điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự,

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T: 14 (mười bốn) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/02/2017.

Ngoài ra, án sơ thẩm tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 06/6/2017, bị cáo Nguyễn Quốc T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phú thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Về tố tụng, đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo xét thấy, ngày 16/02/2017, bị cáo Nguyễn Quốc T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius của chị Nguyễn Thị H có giá trị là 18.105.000đ. Với hành vi này, bị cáo T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Về tính chất, mức độ phạm tội xét thấy, bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội có tính chất đồng phạm và có chủ mưu trước. Khi bị phát hiện, bị cáo và đồng phạm vẫn cố tình chiếm giữ tài sản và tài sản được thu hồi là ngoài ý muốn của họ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 và mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo T là có căn cứ pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quốc T không có tình tiết giảm nhẹ mới, đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, do đó, không có cơ sở để chấp nhận nội dung kháng cáo đã nêu.

Về án phí, do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Quốc T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có căn cứ pháp luật nên không cần phải xem xét.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138, các điểm g, h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự,

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T: 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/02/2017.

Bị cáo Nguyễn Quốc T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

771
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 200/2017/HSPT ngày 21/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:200/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về