TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 66/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH-LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 24 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Cao Thị Út Đ, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Ấp Tây Sơn, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)
2. Bị đơn: Anh Lê Thanh V, sinh năm 1978 Địa chỉ: Ấp Tây Sơn, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Cao Thị Út Đ trình bày: Chị Đ và anh Lê Thanh V tự tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2003, đến năm 2005 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khoảng tháng 01/2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V không chăm lo làm ăn, không đưa tiền cho chị Đ nuôi con, kinh tế khó khăn, vợ chồng thường xuyên cự cãi, cả hai không còn sống chung từ tháng 01/2021, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, do đó chị Đ yêu cầu được ly hôn với anh V.
- Về con chung: Có bốn con chung Lê Thị Thúy Q, sinh ngày 19/5/2004, Lê Thị Ngọc T, sinh ngày 18/7/2005, Lê Thị Ngọc Th, sinh ngày 19/10/2009, Lê Thị Mỹ Y, sinh ngày 06/6/2015 đang sống với chị Đ, sau khi ly hôn chị Đ yêu cầu được nuôi 02 con Lê Thị Ngọc Th, Lê Thị Mỹ Y, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V nuôi dưỡng chăm sóc hai con Lê Thị Thúy Q và Lê Thị Ngọc T, chị Đ không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Không có.
- Về nợ chung: Không có.
Anh Lê Thanh V trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý và đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để làm việc nhưng anh V vẫn vắng mặt không lý do chính đáng nên không ghi được ý kiến của anh V và không tiến hành hòa giải được.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán cũng như Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ theo các quy định của pháp luật, đề nghị: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chị Đ được ly hôn anh V; Về con chung: chị Đ yêu cầu được nuôi 02 con Lê Thị Ngọc Th, Lê Thị Mỹ Y, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V nuôi dưỡng chăm sóc hai con Lê Thị Thúy Q và Lê Thị Ngọc T, chị Đ không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản, nợ chung: Do nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Cao Thị Út Đ làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh Lê Thanh V có địa chỉ cư trú: Ấp Tây Sơn, thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa hôm nay, anh V đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ để dự phiên Tòa, nhưng anh V vẫn vắng mặt không lý do, chị Cao Thị Út Đ có đơn xin xét xử vắng mặt vì đang làm việc tại vùng có dịch bệnh Covid-19 thực hiện giãn cách xã hội nên không đến được, căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Đ và anh V.
[2] Về nội dung: Chị Cao Thị Út Đ và anh Lê Thanh V sống chung với nhau năm 2003 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào năm 2005 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu của chị Đ, Hội đồng xét xử xét thấy chị và anh V chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Thời gian gần đây, đã xảy ra mâu thuẫn, cả hai thường xuyên cự cãi, lý do do anh V không chăm lo làm ăn, không đưa tiền cho chị Đ nuôi con, do điều kiện kinh tế khó khăn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn chung sống tháng 01/2021, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, đã tạo điều kiện cho chị Đ và anh V hàn gắn nhưng cả hai không có biện pháp khắc phục để hàn gắn tình cảm vợ chồng và anh V cũng không đến, điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị Đ và anh V mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ.
Về con chung: Có bốn con chung Lê Thị Thúy Q, sinh ngày 19/5/2004, Lê Thị Ngọc T, sinh ngày 18/7/2005, Lê Thị Ngọc Th, sinh ngày 19/10/2009, Lê Thị Mỹ Y, sinh ngày 06/6/2015 đang sống với chị Đ, sau khi ly hôn chị Đ yêu cầu được nuôi 02 con Lê Thị Ngọc Th, Lê Thị Mỹ Y, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V nuôi dưỡng chăm sóc hai con Lê Thị Thúy Q và Lê Thị Ngọc T, chị Đ không cấp dưỡng nuôi con.
Xét yêu cầu của chị Đ thì thấy từ khi chị Đ và anh V không còn sống chung thì 02 con chung Lê Thị Ngọc Th, Lê Thị Mỹ Y do chị Đ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, cuộc sống đã thích nghi với môi trường sống hiện tại và quyền lợi mọi mặt của các cháu được đảm bảo. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của con, chấp nhận cho chị Đ tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Ngọc Th và Mỹ Y, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con, chị Đ tự nguyện đồng ý để anh V nuôi dưỡng chăm sóc hai con Lê Thị Thúy Q và Lê Thị Ngọc T, chị Đ không cấp dưỡng nuôi con đây là sự tự nguyện của đương sự nên được chấp nhận.
Chị Đ và anh V phải tạo điều kiện cho nhau được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Ghi nhận chị Đ xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ sống chung thì chị Đ và anh V vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí sơ thẩm: Chị Đ phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Cao Thị Út Đ Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Út Đ được ly hôn với anh Lê Thanh V.
Giấy chứng nhận kết hôn số 158/KH, ngày 05/8/2005 của Ủy ban nhân dân thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn đã cấp cho chị Cao Thị Út Đ và anh Lê Thanh V không còn giá trị pháp lý.
Về quan hệ con chung: Chị Cao Thị Út Đ được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung Lê Thị Ngọc Th, sinh ngày 19/10/2009, Lê Thị Mỹ Y, sinh ngày 06/6/2015, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung Lê Thị Thúy Q, sinh ngày 19/5/2004, Lê Thị Ngọc T, sinh ngày 18/7/2005, chị Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh V, chị Đ không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng anh, chị có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh V, chị Đ thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung: Không có, nên không xem xét.
Về nợ chung: Ghi nhận chị Đ xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì chị Đ và anh V vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
Về án phí: Chị Cao Thị Út Đ phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 0008245 ngày 5/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ này nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án 66/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình-ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 66/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về