TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 138/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2020/TLST - HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Phương M, sinh năm: 1995 (có mặt).
Địa chỉ: Số 25 L, khu phố 3, phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Lê Tùng K, sinh năm: 1992 (có đơn đề nghị vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã O, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/12/2019 và quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Phương M là nguyên đơn trình bày:
Chị và anh K tự nguyện kết hôn tháng 4/2016, chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, anh K không lo làm ăn. Tháng 8/2019, chị và anh K tự chấm dứt quan hệ hôn nhân và sống ly thân với nhau cho đến nay, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng có liên hệ tự thỏa thuận về việc nuôi con.
Quá trình chung sống chị và anh K có hai người con chung là cháu Lê Trần Đăng X, sinh ngày 11/12/2016 do anh K nuôi dưỡng và cháu Lê Trần Thiên Y, sinh ngày 04/4/2019 do chị nuôi dưỡng.
Tại phiên tòa, chị xác định không còn tình cảm với anh K nên cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh K; về con chung: Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu được quyền nuôi cháu X và cháu Y, chị có đủ điều kiện nuôi các con nên không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi các con. Tuy nhiên, trong thời gian sống ly thân chị và anh K tự thỏa thuận việc nuôi con, chị đồng ý để anh K nuôi dưỡng cháu X, cháu Y do chị nuôi dưỡng. Do đó, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề con chung khi ly hôn với anh K; về tài sản và nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai, anh Lê Tùng K là bị đơn trình bày:
Anh và chị M tự nguyện kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật; thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và có 02 người con chung là cháu X và cháu Y. Đối với yêu cầu của chị M anh đồng ý ly hôn; về con chung anh và chị M đã tự thỏa thuận với nhau, cụ thể anh nuôi cháu X, chị M nuôi cháu X không có tranh chấp.
Về tài sản và nợ chung: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Chị Trần Phương M yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Lê Tùng K. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Anh Lê Tùng K là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Mặt khác, anh K có đơn đề nghị vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt anh K theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Phương M và anh Lê Tùng K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố R, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 30/5/2017 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp. Chị M xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống; tháng 8/2019, chị và anh K sống ly thân với nhau cho đến nay, trong thời gian sống ly thân người nào chỉ biết bổn phận người đó, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, chị M và anh K đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị M và anh K nhưng không đạt kết quả do chị M cương quyết yêu cầu được ly hôn và anh K có ý kiến thống nhất ly hôn với chị M. Điều này cho thấy chị M và anh K không còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị M yêu cầu ly hôn với anh K là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con chung: Chị Trần Phương M và anh Lê Tùng K có 02 người con chung là cháu Lê Trần Đăng X, sinh ngày 11/12/2016 và cháu Lê Trần Thiên Y, sinh ngày 04/4/2019. Theo đơn khởi kiện chị M yêu cầu được quyền nuôi các con chung, chị có đủ điều kiện nuôi con nên không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên tòa chị M xác định giữa chị và anh K không có tranh chấp về việc nuôi con, hai bên có đủ điều kiện nuôi con, việc anh K nuôi cháu X và chị nuôi cháu Y đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, không bên nào gây khó khăn cho nhau trong việc thăm nom, chăm sóc các con nên chị rút lại yêu cầu giải quyết về con khi ly hôn. Xét thấy, việc rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn của chị M là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật, căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử yêu cầu nuôi con khi ly hôn giữa chị M và anh K. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu X và cháu Y, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự thỏa thuận nuôi con giữa chị M và anh K, như sau: Chị M đồng ý để anh K tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu X; ngược lại, anh K đồng ý để chị M tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Y. Trường hợp, chị M và anh K có tranh chấp về việc nuôi con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.
Về tài sản và nợ chung: Chị M và anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;
Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Trần Phương M được ly hôn với anh Lê Tùng K.
2. Về con chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn giữa chị Trần Phương M và anh Lê Tùng K. Ghi nhận sự tự thỏa thuận về việc nuôi con giữa chị M và anh K, cụ thể như sau: Anh K tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Trần Đăng X, sinh ngày 11/12/2016; chị M chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Trần Thiên Y, sinh ngày 04/4/2019. Trường hợp, chị M và anh K có tranh chấp về việc nuôi con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.
3. Về án phí: Chị Trần Phương M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008182 ngày 10/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang. Chị M đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Phương M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 24/12/2020; anh Lê Tùng K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án 138/2020/HNGĐ-ST ngày 24/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 138/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về