Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 19/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 353/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm 1995 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2. Bị đơn: Chị Vi Thị V, sinh năm 1998 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo nguyên đơn anh Trần Văn L trình bày:

Anh và chị Vi Thị V kết hôn tự nguyện, không bị ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 27/6/2016. Sau khi kết hôn, chị V về nhà anh làm dâu ngay, vợ chồng chung sống cùng gia đình anh tại thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2019 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng nhiều lần xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã ly thân từ đầu tháng 9/2020 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Ngọc A, sinh ngày 13/9/2017. Hiện nay cháu Ngọc A đang sống cùng chị V, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường. Nay ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung cho anh nuôi dưỡng và anh không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay anh chưa có công việc ổn định, anh chủ yếu ở nhà làm vườn phụ giúp gia đình.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Vi Thị V trình bày tại bản tự khai:

Chị và anh Trần Văn L kết hôn tự nguyện, trước khi kết hôn được tự do tìm hiểu, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã T vào ngày 27/6/2016. Sau khi kết hôn chị về nhà anh L làm dâu ngay và sống cùng gia đình anh L ở thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7/2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do anh L thường xuyên sử dụng rượu bia, không chăm lo cho đời sống gia đình, chị khuyên giải nhiều lần nhưng anh L không thay đổi. Hơn nữa anh L đã có hành vi vi phạm pháp luật, phải đi chấp hành hình phạt tù, đến tháng 4/2020 chấp hành xong. Tuy nhiên, từ khi anh L chấp hành án tù xong, anh L vẫn không thay đổi. Do không thể tiếp tục chung sống với anh L được nữa nên ngày 19/8/2020 chị bỏ về nhà ngoại sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay anh L xin ly hôn với chị, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống nên chị nhất trí ly hôn với anh L.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 13/9/2017. Hiện nay cháu Ngọc A đang ở cùng chị và ông bà ngoại. Vợ chồng ly hôn, chị đề nghị được nuôi cháu Ngọc A, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung. Chị đang sống cùng bố mẹ đẻ và anh trai tại thôn Vật Phú, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Hiện nay chị chưa có công việc ổn định, trước đây chị có đi làm công nhân nhưng đã nghỉ việc từ tháng 5/2020.

Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giai quyết.

Ti phiên tòa nguyên đơn anh Trần Văn L vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vi Thị V, đề nghị được nuôi dưỡng cháu Trần Ngọc A. Cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, công nợ chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Vi Thị V giữ nguyên ý kiến đã trình bày, chị nhất trí ly hôn với anh L. Về con chung đề nghị Tòa án giao cháu Trần Ngọc A cho chị nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, công nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của các đương sự: Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đại diên Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 227, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Trần Văn L: Cho anh Trần Văn L được ly hôn với chị Vi Thị V.

2. Về con chung: Giao cho chị Vi Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 13/9/2017. Việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Anh Trần Văn L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đợc thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án và thủ tục tố tụng:

Anh Trần Văn L khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết ly hôn, nuôi con chung với chị Vi Thị V, hiện nay chị Vi Thị V đang cư trú tại thôn V, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Căn cứ quy định tại quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn L và chị Vi Thị V tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 27/6/2016, do vậy xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong công việc làm ăn hàng ngày. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, anh L và chị V đều xác định không còn tình cảm và đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa anh L và chị V đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Căn cứ quy định khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của anh L, cho anh L được ly hôn với chị V.

[2.2]. Về con chung: Anh L và chị V có 01 con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 13/9/2017. Vợ chồng ly hôn, anh L và chị V đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng xin nuôi con của anh L và chị V là chính đáng. Cháu Trần Ngọc A còn nhỏ, là con gái nên vấn đề phát triển tâm sinh lý sau này cần sự chăm sóc của mẹ hơn. Qua xác minh tại địa phương được biết chị V đã có chỗ ở, trong thời gian anh L chấp hành án thì chị V đã nuôi dưỡng con chung phát triển đảm bảo. Vì vậy cần giao cháu Ngọc A cho chị Vi Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc là đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cũng như việc phát triển toàn diện của con chưa thành niên .

Việc cấp dưỡng nuôi con chung, do chị Vi Thị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh L và chị V không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn anh Trần Văn L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 1 Điều 227; Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Trần Văn L: Cho anh Trần Văn L được ly hôn với chị Vi Thị V.

2. Về con chung: Giao cho chị Vi Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Trần Ngọc A, sinh ngày 13/9/2017. Việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn, anh Trần Văn L được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Trần Văn L thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Anh Trần Văn L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh L đã nộp theo biên lai thu số: AA/2019/0001543 ngày 20/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn. Khoản tiền này được chuyển thành án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 19/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về