Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 157/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 42/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Vũ Minh T sinh năm 1980

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L sinh năm 1983

Nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Bình

(Tại phiên tòa có mặt anh T; vắng mặt chị L không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/6/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Vũ Minh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị L tự do, tự nguyện tìm hiều dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình vào ngày 29/3/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến ngày 05/6/2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thương yêu, thông cảm cho nhau cũng thời gian đó anh đã đưa chị L về nhà bố mẹ đẻ ở Thôn C, xã N sinh sống vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng giữa anh và chị L không còn, anh xin ly hôn chị L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Phước Tsinh ngày 24/01/2017, hiện đang ở với chị L. Ly hôn, anh để chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung, do chị L không yêu cầu anh cấp dưỡng cho con nên anh không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị L vắng mặt nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 20/7/2020 chị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác định về thời gian, điều kiện và hoàn cảnh kết hôn như anh T đã trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì nhưng từ ngày 05/6/2016 anh T đi làm ăn xa nên đã đưa chị về nhà bố mẹ đẻ ở Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Bình sinh sống. Trong suốt thời gian anh T đi làm ăn xa chị không liên lạc với anh T, gia đình và anh T không liên lạc và tìm chị về nên cũng từ thời gian đó vợ chồng ly thân. Nay anh T có đơn xin ly hôn, chị xác nhận không còn tình cảm vợ chồng với anh T nhưng chị không nhất trí ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Vũ Phước Tsinh ngày 24/01/2017, hiện đang ở với chị, cũng do chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng từ nhỏ. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Hiện tại, chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh với cơ cơ sở Thôn Đ, xã V: Anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L là vợ chồng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh T. Quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì cơ sở thôn không biết rõ chỉ biết từ tháng 6/2016 chị L không sinh sống tại gia đình anh T nữa. Nay anh T có đơn ly hôn cơ sở thôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh T và chị L có 01 con chung là Vũ Phước Tsinh ngày 24/01/2017, hiện đang ở với chị L. Nếu Tòa án giải quyết cho anh T và chị L ly hôn, về con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. vụ án:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Bình về giải quyết Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến nhận xét về việc chấp hành pháp luật của bị đơn.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51,56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: xử cho anh Vũ Minh T được ly hôn chị Nguyễn Thị L; xử giao con chung Vũ Phước Tsinh ngày 24/01/2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con; về tài sản: anh T và chị L đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh T phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Anh Vũ Minh T khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với chị Nguyễn Thị L, do chị L là bị đơn cư trú Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện P, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do chị Nguyễn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp đăng ký kết hôn số 11 ngày 29/3/2016 là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hòa thuận đến tháng 6/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm cho nhau, cũng thời gian đó vợ chồng đã ly thân. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh xin ly hôn chị L. Còn chị L cũng xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh T nhưng chị không nhất trí ly hôn với anh T. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không có kết quả. Mặc dù thời gian mâu thuẫn đã lâu nhưng cả anh T và chị L không tìm ra biện pháp nào có hiệu quả để hàn gắn, cải thiện quan hệ vợ chồng. Mặt khác trong suốt quá trình giải quyết vụ án đến nay vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn không đạt được, hôn nhân của anh chị thực tế chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, vì vậy cần xử cho anh T được ly hôn chị L là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình. [3] Về con chung: Anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L có 01 con chung là Vũ Phước Tsinh ngày 24/01/2017, hiện đang ở với chị L. Ly hôn, anh T có nguyện vọng để con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị L có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con. Hiện con chung đang ở cùng và do chị L trực tiếp nuôi dưỡng từ nhỏ, để không làm ảnh hưởng đến việc sinh hoạt của con chung cần giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con là phù hợp với tình hình thực tế của con chung và phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Anh Vũ Minh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Vũ Minh T được ly hôn chị Nguyễn Thị L.

2.Về con chung: Xử giao con chung Vũ Phước T sinh ngày 24/01/2017 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không yêu cầu anh Tuân cấp dưỡng cho con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Anh Vũ Minh T và chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4.Về án phí: Anh Vũ Minh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng anh T đã nộp theo biên lai thu số 0004440 ngày 01 tháng 7 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P được chuyển thành tiền án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Minh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về