Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 53/2020/QĐST - HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu V, sinh năm 1985:

- Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh S, sinh năm 1973:

Cùng địa chỉ: Ấp x, xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai.

(Nguyên đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/02/2020 và lời khai trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Huỳnh Thanh S chung sống với nhau từ năm 1999. Đến năm 2007, bà và ông S tự nguyện đăng ký kết và được Ủy ban nhân dân xã B T, huyện C T, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn.

Nguyên nhân là do ông S tham gia đánh bạc, bỏ bê làm ăn nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã với nhau. Từ tháng 12/2019, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Huỳnh Thanh S.

Về con và cấp dưỡng nuôi con: Bà và ông S có 02 con chung là: Huỳnh Thanh Hoàng D, sinh năm 1999 và Huỳnh Thị Anh T, sinh ngày 03/3/2011. Khi ly hôn, đối cháu Duy đã trưởng thành và có khả năng lao động nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu T và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà và ông S có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Tân Phú số tiền 90.000.000 đồng. Bà yêu cầu mỗi người phải có trách nhiệm thanh toán 45.000.000 đồng. Tuy nhiên, nay khoản nợ chưa đến hạn thanh toán nên và Ngân hàng không khởi kiện và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên bà cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đến bị đơn nhưng bị đơn không đến Tòa án để làm việc, không giao nộp tài liệu, chứng cứ để trình bày ý kiến của mình và cũng không tham gia phiên hòa giải. Vì vậy, Tòa án không thể hòa giải vụ án theo quy định tại Điều 54 của Luật hôn nhân và gia đình và quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.

Tòa án lập Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự tại địa phương và thông báo kết quả thu thập được tài liệu, chứng cứ gửi đến các đương sự. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Nguyên đơn không có ý kiến về các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp, cũng như các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được và không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác; bị đơn vắng mặt, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tống đạt theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng trình tự tố tụng theo quy định đối với một phiên tòa sơ thẩm.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Các Điều 91, 92, 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Cho bà Nguyễn Thị Thu V được ly hôn với ông Huỳnh Thanh S; giao cháu Huỳnh Thị Anh T, sinh ngày 03/3/2011 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng; tạm thời, ông S không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung: Tự thỏa thuận; về nợ chung: Tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi có tranh chấp; về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Ông S có nơi cư trú tại Ấp x, xã P T, huyện T P, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

[1.2] Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông S và yêu cầu được trực nuôi con chung chưa thành niên. Vì vậy, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.3] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn NHẬN THẤY [2.1] Về hôn nhân: Các đương sự tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B T, huyện C T, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 07/02 năm 2007. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ, khi bà V yêu cầu ly hôn thì Tòa án căn cứ Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.

Trên cơ sở lời khai của đương sự và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng, thể hiện: Trong thời gian sống chung, do ông S không lo làm ăn, ham mê cờ bạc và bà V đã khuyên can nhưng ông S không sửa đổi bản thân nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã với nhau trong thời gian dài. Từ tháng 12/2019, các đương sự sống ly thân cho đến nay. Bà V khởi kiện, ông S đã biết được việc Tòa án thụ lý vụ án, được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, cho thấy ông S không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống với nhau và cũng không đưa ra ý kiến gì phản đối việc bà V yêu cầu ly hôn với mình.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ giữa vợ và chồng; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không được liên tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con và cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự có 02 (hai) con chung là: Huỳnh Thanh Hoàng D, sinh năm 1999 và Huỳnh Thị Anh T, sinh ngày 03/3/2011. Hiện cháu Duy đã trưởng thành và có khả năng lao động nên Tòa án không giải quyết. Khi ly hôn, bà V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con. Nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên; bị đơn không gửi ý kiến, yêu cầu của mình và cũng không phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Mặt khác, từ khi các đương sự sống ly thân, cháu T do bà V nuôi dưỡng và cháu T có nguyện vọng được sống cùng với bà V. Vì vậy, giao cháu T cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết, khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết và Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết tài sản chung khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nợ chung. Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết nợ chung nên khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, 147; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 235, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

- Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 và 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

- Điều 85, 89, 91, 92, 93 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu V.

1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu V được ly hôn với ông Huỳnh Thanh S.

1.2. Về con và cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên: Các đương sự có 02 (hai) con chung là: Huỳnh Thanh Hoàng D, sinh năm 1999 và Huỳnh Thị Anh T, sinh ngày 03/3/2011. Đối cháu Duy đã trưởng thành và có khả năng lao động nên Tòa án không giải quyết. Giao cháu T cho bà V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà V không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết.

Các đương sự có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây cản trở. Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có tranh chấp.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình về ly hôn. Số tiền tạm ứng án phí bà V đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 005793 ngày 24/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, được trừ vào án phí. Bà V đã nộp đủ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thơi hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về