Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 03/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2020 VỀ VIỆC LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 03 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 643/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Tổ L, Ấp X, xã H, huyện M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Có mặt”

Bị đơn: Ông Võ Văn H, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ 17, ấp B, xã P, huyện M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/10/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Võ Văn H kết hôn năm 2014, hôn nhân là tự nguyện, không bị ai ép buộc, được hai bên gia đình đồng ý, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày 06/6/2014. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống cùng với cha, mẹ chồng tại ấp B, xã P, huyện M. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau nên vợ chồng sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể khắc phục. Năm 2018, bà T về sinh sống cùng cha mẹ ruột tại Ấp 2, xã H, huyện M và ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Nay, bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân đã đến mức trầm trọng nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn ông H.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà T và ông H có 01 con chung tên là Võ Nguyễn Mỹ Y, sinh ngày 09/11/2014, hiện nay đang sống với ông H. Khi ly hôn bà T đồng ý giao cháu Y cho ông H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng và bà T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Võ Văn H vắng mặt.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án số 643/2019/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 và các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, kèm theo giấy triệu tập ông H đến Tòa án để làm việc, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản gửi cho Tòa án nêu ý kiến về nội dung vụ án, vì vậy Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định pháp luật.

Về thời hạn xử lý đơn còn quá 05 ngày và vụ án quá 04 tháng là vi phạm thời hạn xử lý đơn và thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 191 và Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, vi phạm trên tuy không ảnh hưởng tới nội dung nhưng Tòa án cần rút kinh nghiệm.

Đối với các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án là chưa chấp hành pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn ông Võ Văn H. Về con chung, đề nghị giao cháu Võ Nguyễn Mỹ Y cho ông Võ Văn H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà Nguyễn Thị Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện M nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Ông Võ Văn H cư trú tại xã P, huyện M, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bà Rịa - Vũng theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Võ Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia các phiên tòa sơ thẩm ngày 10/7/2020 và ngày 03/8/2020, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo luật định.

[2]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 119, Quyển số 01, ngày 06/6/2014 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xác định hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Võ Văn H là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau nên sống chung không hạnh phúc. Hai bên đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không còn phụ thuộc nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn ông H. Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa bà T và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho bà T được ly hôn ông H theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[3]. Về con chung: Bà T và ông H có 01 con chung tên là Võ Nguyễn Mỹ Y, sinh ngày 09/11/2014, hiện nay đang sống cùng ông H. Khi ly hôn bà T nhường quyền trực tiếp nuôi con chung cho ông H, vì vậy giao cháu Y cho ông H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Không có yêu cầu nên bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn ông Võ Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Nguyễn Mỹ Y, sinh ngày 09/11/2014 cho ông Võ Văn H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Nguyễn Thị Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị Ngọc T có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001537 ngày 06 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Nguyễn Thị Ngọc T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 03/08/2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về