Bản án 66/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 67/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh S, sinh ngày 04/4/1988 tại thành phố H; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị T; chưa có vợ, con; tiền án: Bản án số 104/2015/HSST ngày 06/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 06 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/3/2015 (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2015, đã thi hành xong số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm ngày 04/01/2016, đã xóa án tích); tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 94/QĐ- TA ngày 22/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H với thời hạn 18 tháng (Chấp hành xong ngày 27/01/2018, chưa được xóa); bị tạm giữ từ ngày 20/3/2019 đến ngày 26/3/2019 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; đăng ký hộ khẩu thường trú: Cụm C, tổ dân phố H, thị trấn C, huyện C, thành phố H; nơi ở: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng 20 giờ 30 phút ngày 19/3/2019, Nguyễn Thanh S một mình đi sang khu vực chân cầu Quay thuộc nội thành H mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Về đến nhà, S lấy một phần ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại S cất trong hộp giấy, bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế, bật lửa ga, đoạn ống hút nhựa S để trên mặt ghế gỗ ở cạnh giường trong phòng ngủ. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/3/2019, khi S đang ngồi trên giường, chuẩn bị lấy số ma túy đá còn lại ra sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện T kết hợp với Công an xã T kiểm tra phát hiện S có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, tổ công tác thu giữ tại vị trí S ngồi có 01 hộp giấy kích thước 08cm x 16cm bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước 01cm x 1,5cm chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy), tại mặt ghế gỗ trong phòng ngủ của S có 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế, 01 đoạn ống hút nhựa dài 0,5cm một đầu bằng, một đầu vót nhọn và 01 bật lửa ga. Quá trình bắt giữ tại nơi ở của S còn có Nguyễn Thị H sinh năm 1989, trú tại Cụm C, tổ dân phố H, thị trấn C, huyện C, thành phố H. Tổ công tác đã đưa S, H cùng vật chứng về trụ sở công an giải quyết. Tiến hành giám định mẫu nước tiểu của S và H xác định: Trong mẫu nước tiểu của S có chất ma túy Methamphetamine và MDMA, mẫu nước tiểu của H có chất ma túy Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh S khai nhận toàn bộ hành vi của mình và việc bị bắt giữ cùng vật chứng như nội dung trên, việc S mua và cất giấu trái phép chất ma túy H không biết, không tham gia.

Bản Kết luận giám định số 108/KLGĐ ngày 25/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố H kết luận: Tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của S là ma túy, có khối lượng 0,1438 gam, là loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKSTN ngày 04 tháng 7 năm 2019 Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H đã truy tố Nguyễn Thanh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo S khai nhận hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, do nghiện ma túy nên bị cáo đã có hành vi đi mua ma túy và cất giấu để sử dụng cho bản thân, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo S đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 0,1438 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo S từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng đã thu giữ. Buộc bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi, quyết định tố tụng của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về tội danh và điều luật áp dụng:

[3]. Bị cáo Nguyễn Thanh S đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là Methamphetamine có khối lượng 0,1438 gam để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là cố ý và nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ, vi phạm Luật phòng chống ma túy, tiếp tay cho hoạt động mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gây nên các loại tội phạm khác. Với hành vi nêu trên, bị cáo S đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo S thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất vụ án và hình phạt:

[4]. Bị cáo S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo S là đối tượng nghiện ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên mức khởi điểm của khung hình phạt và buộc bị cáo chấp hành tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5]. Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo S là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[6]. 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp giấy kích thước 08cm x 16cm, 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm một đầu bằng một đầu vót nhọn, 01 bật lửa ga và 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế đã qua sử dụng xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Trong vụ án này, Nguyễn Thị H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện T đã xử phạt vi phạm hành chính. Đối với đối tượng bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Thanh S, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 20/3/2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định, 01 hộp giấy kích thước 08cm x 16cm, 01 đoạn ống hút nhựa dài 05cm một đầu bằng một đầu vót nhọn, 01 bật lửa ga và 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế đã qua sử dụng (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 31/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về