Bản án 66/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 27 và 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1999 tại Khánh Hòa.

Nơi cư trú: Thôn BL, xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị H; Có vợ và 01 con sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Quan D, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Thôn BL, xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Tấn Đ, sinh năm: 1994; Nơi cư trú: Thôn BL, xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).

2. Ông Trương Bá L, sinh năm: 1995; Nơi cư trú: Thôn BL, xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa (có mặt).

3. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Thôn BL, xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 10/4/2019, Nguyễn Văn L đi đến sân bóng thuộc thôn BL, xã CB, thành phố CR thì thấy Nguyễn Quan D đang chơi đá bóng nên Lộc gọi D ra để yêu cầu D trả nợ. Khi L gọi, D không đi ra ngoài nên L đi vào trong và hai bên xảy ra xô xát nhưng được ông Trương Bá L, Phạm Văn Đ và Nguyễn Tấn Đ can ngăn, hai bên không đánh nhau nữa. Khi L đang nói chuyện với ông Nguyễn Tấn Đ (là anh của D) về việc Đ sẽ trả tiền nợ thay cho D thì D xông vào đánh L vào mặt. Lúc này, L đang cầm chìa khóa xe mô tô trên tay đánh lại D hướng từ bên phải qua bên trái vào vùng tai trái của D gây thương tích.

Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số 218 ngày 31/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Nguyễn Quan D là 24%.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKSCR-HS ngày 01/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự (Dẫn chiếu điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự (Dẫn chiếu điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự); Điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L mức hình phạt từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc gia đình, bồi thường thêm cho bị hại và sống có ích hơn cho xã hội. Về phần trách nhiệm dân sự, bị cáo tự nguyện bồi thường thêm cho bị hại số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), tại phiên tòa bị cáo đã đưa cho trước cho bị hại 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) bồi thường trong thời hạn 01 (một) tháng.

Tại phiên tòa, bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lộc, cho bị cáo được hưởng án treo và đồng ý việc bồi thường thêm số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) của bị cáo, tại phiên tòa bị hại đã nhận số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng, ông Phạm Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định.

[3] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với kết luận pháp y về thương tích và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đng thời, qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 18 giờ ngày 10/4/2019 tại sân bóng thuộc thôn Bình Lập, xã Cam Bình thành phố Cam Ranh, Nguyễn Văn L dùng chìa khóa xe mô tô đánh theo hướng từ bên phải qua bên trái vào tai trái của Nguyễn Quan D gây thương tích với tỷ lệ thương tật 24%.

Do có sự bức xúc trong việc đòi tiền nợ nhưng bị hại không trả và có sự đánh nhau qua lại giữa hai bên nên Nguyễn Văn L đã cố ý gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tật 24%. Hành vi của bị cáo không có tính chất côn đồ, tuy nhiên bị cáo đã dùng vật cứng là chìa khóa xe mô tô gây nên thương tích cho bị hại, dẫn chiếu tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự nên thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm nhân dân thành phố Cam Ranh truy tố bị cáo theo Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm sức khỏe người khác và gây mất trật tự, trị an địa phương. Hành vi của bị cáo cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Mặt khác, khi xem xét hành vi của bị cáo cần phải đánh giá tính chất của hành vi phạm tội, hoàn cảnh xảy ra hành vi phạm tội với những nhận định sau:

Thứ nhất, bị cáo và bị hại là bạn bè của nhau từ trước. Do có sự quen biết và chơi chung với nhau nên L đã vay tiền giúp cho D trong lúc khó khăn. Điều này đúng ra phải được D trân trọng và có trách nhiệm trả tiền cho L đúng thời hạn. Trong khi đó, D không trả tiền cho L và còn có thái độ không thực sự thiện chí khi L đến yêu cầu trả nợ, điều đó dễ dẫn đến sự bức xúc, bất bình từ phía L, gây ra sự việc đáng tiếc như trên. Đây là bài học không chỉ cho bị cáo mà còn là của cả bị hại trong cuộc sống.

Thứ hai, việc L đến đòi nợ D là hoàn toàn tình cờ, không có ý định trước. Điều này thể hiện việc L không có ý định gây thương tích cho D hoặc gây sự với D trước đó, do đến nơi không nhận được thái độ tôn trọng của D nên L mới bức xúc gạt tay không vào đầu D. Đến thời điểm L và D lao vào đánh nhau, được mọi người can ngăn L đã không có hành vi gây thương tích với D mà trao đổi với anh của D về phương án trả nợ thay. Sự việc đáng lẽ dừng lại tại đây nếu D không có hành vi đánh vào mặt của L dẫn đến việc L đánh trả khi trên tay cầm chìa khóa mô tô gây thương tích cho D. Hành vi đánh L của D cũng đã bị Công an thành phố Cam Ranh xử phạt vi phạm hành chính, Duy cũng đã chấp hành việc đóng phạt. Như vậy, có thể nhận định rằng, hành vi phạm tội của bị cáo có một phần nguyên nhân do lỗi của bị hại.

Thứ ba, hung khí bị cáo gây thương tích cho bị hại là vật gắn liền thân, không phải là hung khí nguy hiểm bị cáo chuẩn bị từ trước để nhằm mục đích gây thương tích cho bị hại. Bị cáo đã không mong muốn hậu quả thương tích xảy ra với bị hại.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân:

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cụ thể: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo cũng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cụ thể: Bị cáo lần đầu phạm tội; Hành vi của bị cáo có một phần lỗi của bị hại; Được bị hại, gia đình bị hại có đơn xin bãi nại; Bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo có 01 con nhỏ sinh năm 2019 cần có sự chăm sóc của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Bị cáo có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục; Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; Không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đủ điều kiện cho hưởng án treo, không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cũng đủ cho bị cáo có khả năng tự cải tạo. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật hình sự Việt Nam.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng) và bị hại không yêu cầu về dân sự. Tại phiên tòa, bị cáo đề nghị được bồi thường thêm số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) cho bị hại, đã đưa cho bị hại 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng), số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) bồi thường trong thời hạn 01 (một) tháng và được bị hại đồng ý nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 (một) chìa khóa xe mô tô bằng kim loại màu trắng dài 07cm, có ốp nhựa màu đen trên có ký hiệu “Z”. Xét đây là công cụ phạm tội nên tịch thu và tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào:

- Điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (Dẫn chiếu điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015);

- Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015;

- Điều 106, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã CL, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Trong trường hợp người được hưởng án treo (bị cáo Nguyễn Văn L) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo (bị cáo Nguyễn Văn L) cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) chìa khóa xe mô tô bằng kim loại màu trắng dài 07cm, có ốp nhựa màu đen trên có ký hiệu “Z” theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/11/2019 giữa Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an thành phố Cam Ranh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cam Ranh.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Quan D số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Quy định chung:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn ph ải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, ngư ời phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về