Bản án 66/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 66/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 27/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/QĐXX-HS ngày 25/4/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Bùi Xuân H, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Xuân H, sinh năm 1939 được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ Hạng Nhì và bà Phạm Thị L (đã chết); vợ là chị Phạm Thị T, sinh năm 1981 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1996 bị Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, năm 2011 bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, (đã xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 18/12/2018, tạm giam từ 21/12/2018, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Bùi Công V, sinh năm 1972, (vắng mặt);

Nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

* Người chứng kiến:

- Anh Phạm Đức B, sinh năm 1957, (vắng mặt);

Nơi cư trú: số nhà 02/04, Ngõ 129, đường L, Tổ 11, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình;

- Anh Vũ Vương N, sinh năm 1952, (vắng mặt);

Nơi cư trú: Số nhà 22, đường Q, Tổ 30, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực đường L, Tổ 29, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình, tổ công tác của Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình phát hiện Bùi Xuân H có biểu hiện bất thường nên yêu cầu kiểm tra đối với Bùi Xuân H. Trước sự chứng kiến của hai người chứng kiến là ông Phạm Đức B và ông Vũ Vương N, Bùi Xuân H tự giác lấy từ túi quần bên trái của Huân ra giao nộp cho tổ công tác 02 gói bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, mở kiểm tra bên trong đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Bùi Xuân H khai nhận đó là Hêrôin do trước đó khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày Bùi Xuân H mua giá 200.000 đồng của 01 người nam giới khoảng 50 tuổi không biết họ tên, địa chỉ tại khu vực đường L, Tổ 29, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác niêm phong 02 gói này và đưa xe mô tô do Huân điều khiển cùng Bùi Xuân H và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Trần Lãm để làm việc. Tại đây, tổ công tác tiến hành kiểm tra người Bùi Xuân H thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, kiểm tra chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm sát 17K2-7731 do bị cáo điều khiển nhưng không phát hiện thu giữ được gì. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng để điều tra, xử lý.

Tại bản kết luận giám định số 443/KLGD-PC09, ngày 18/12/2018 kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “Vật chứng thu giữ của của Bùi Xuân H, sinh năm 1977, trú tại: Thôn H, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình ngày 18/12/2018” là ma túy loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1538 gam (không phẩy một nghìn năm trăm ba mươi tám gam).

Tại cơ quan điều tra người chứng kiến là ông Vũ Vương N và ông Phạm Đức B trình bày: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực đường L, Tổ 29, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình ông, bà chứng kiến Bùi Xuân H tự giác lấy từ túi quần bên trái của Bùi Xuân H ra 02 gói bên ngoài đều được gói bằng giấy tráng kim màu trắng giao nộp cho Công an, Công an mở kiểm tra bên trong đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Bùi Xuân H khai nhận đó là Hêrôin do khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày, tại khu vực đường L, tổ 29, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình, Bùi Xuân H mua giá 200.000 đồng của 01 người nam giới khoảng 50 tuổi không biết họ tên, địa chỉ mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác niêm phong 02 gói ma túy này và đưa Bùi Xuân H cùng xe mô tô và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Trần Lãm để làm việc. Tại đây Công an kiểm tra trên người Bùi Xuân H nhưng không phát hiện thu giữ gì.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Bùi Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số: 63/CT-VKSTP ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Bùi Xuân H về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực đường L, tổ 29, phường L, thành phố B, Bùi Xuân H, sinh ngày 21/4/1977, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1538 gam (không phẩy một nghìn năm trăm ba mươi tám gam) ma túy loại Heroine (Hêrôin) mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Kiểm sát viên phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, không có chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đó giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng đồng thời đề nghị hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Xuân H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 18/12/2018. Bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị xử lý vật chứng bằng hình thức: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo hoàn lại sau giám định; Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm sát 17K2-7731 cho anh Bùi Công V; Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen cho bị cáo Bùi Xuân H nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo Bùi Xuân H xác định cáo trạng truy tố bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng tội, đúng pháp luật vì vậy bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh và mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên và Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và đó là các tài liệu, chứng cứ hợp pháp chứng minh cho hành vi phạm tội của bị cáo. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và cơ quan điều tra thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn lộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, đồng thời còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 35 phút ngày 18/12/2018 tại trụ sở Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu lập hồi 13 giờ 25 phút ngày 18/12/2018 tại trụ sở Công an phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; Bản kết luận giám định số 443/KLGD-PC09, ngày 18/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình; Lời khai của những người chứng kiến: ông Vũ Vương N và ông Phạm Đức B; Cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 12 giờ 35 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực đường L, tổ 29, phường L, thành phố B, bị cáo Bùi Xuân H có hành vi tàng trữ trái phép 0,1538 gam (không phẩy một nghìn năm trăm ba mươi tám gam) ma túy loại Heroine (Hêrôin) mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Bị cáo là người trưởng thành, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, bị cáo phải nhận thức rõ các tác hại do ma túy gây ra cũng như phải hiểu được quy định của pháp luật về việc nghiêm cấm đối với mọi hành vi liên quan đến ma túy, song với mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân bị cáo đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, bị cáo tàng trữ ma túy loại Hêrôin có khối lượng 0,1538 gam tương đương với khối lượng ma túy cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều 249 - Tội tàng trữ trái phép chất ma túy: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: …; c) Hêrôin, Côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ...”.Như vậy, hành vi của bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Là nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó đã cố ý xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Xét nguyên nhân và điều kiện để thực hiện hành vi phạm tội là nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên bị cáo không tuân thủ pháp luật, cố ý tàng trữ trái phép 0,1538 gam Hêrôin. Vì vậy cần xét xử bị cáo nghiêm minh bằng pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào nhưng có nhân thân xấu, vào năm 1996, 2011, bị Tòa án áp dụng hình phạt tù (đã xóa án tích) nên cần xem xét khi quyết định hình phạt. Song cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có bố để là ông Bùi Xuân Hợp đặng tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình.

[5]. Về mức hình phạt và biện pháp chấp hành hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là phạt tù có thời hạn - buộc bị cáo cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo hiệu quả của việc cải tạo, giáo dục cũng như phòng ngừa tội phạm chung. Bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định lại nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về nguồn gốc số ma túy. Bị cáo Bùi Xuân H khai mua ma túy của 01 người nam giới không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xử lý là phù hợp.

[7]. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen BKS 17K2-7731 do Cơ quan Công an đã quản lý của Bùi Xuân H. Qua điều tra xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Bùi Công V, sinh năm 1972, nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. Ngày 18/12/2018 Bùi Xuân H mượn của anh V điều khiển đi mua ma túy anh V không biết. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tuyên trả lại cho anh V là phù hợp. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel của bị cáo Bùi Xuân H, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo đề nghị được xin lại tài sản trên nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng giao cho cơ quan Thi hành án tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[8]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy loại Hêrôin do bị cáo tàng trữ trái phép hoàn lại sau giám định, là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Về án phí: Bị cáo Bùi Xuân H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]. Bị cáo Bùi Xuân H có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Xuân H phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Xuân H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định thu của bị cáo Bùi Xuân H và bao gói.

Trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen BKS 17K2-7731cho Bùi Công V, sinh năm 1972, nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.

Trả lại cho bị cáo Bùi Xuân H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen nhưng giao cho cơ quan Thi hành án tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

3. Án phí: Buộc bị cáo Bùi Xuân H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Án tuyên công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/5/2019. Vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về