Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 66/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại Hội trường xét xử của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 338/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 68/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ái N, sinh năm 1993 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn I, xã Ch, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1983 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn I, xã Ch, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03 tháng 5 năm 2019, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ái N trình bày:

Về hôn nhân: Tôi và anh Phạm Văn T tự nguyện chung sống với nhau, đăng ký kết hôn năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Vợ chồng sống không có hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không có tiếng nói chung, anh T chửi bới, đánh đập tôi, chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, không ai quan tâm, chăm sóc, chia sẻ với ai. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng giữa tôi và anh Phạm Văn T không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng, không thể khắc phục, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Phạm Văn T.

Về con chung: Tôi và anh Phạm Văn T có với nhau 03 người con chung: Cháu Phạm Gia L, sinh ngày 12/10/2009; Phạm Gia M, sinh ngày 02/10/2012; Phạm Chí T, sinh ngày 23/11/2015.

Khi ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi giao cháu Phạm Chí T, cháu Phạm Gia L và cháu Phạm Gia M cho anh T nuôi dưỡng. Tôi xin được cấp dưỡng nuôi con cho anh T để nuôi cháu L mỗi tháng 600.000đ; cháu M cháu T mỗi cháu một tháng là 700.000đ, kể từ ngày 01/11/2019 cho đến khi các con thành niên.

Về tài sản chung và nợ chung: Chúng tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tiền án phí: Tôi tự nguyện chịu toàn bộ.

Ngoài ra tôi không có yêu cầu gì khác.

Bị đơn là anh Phạm Văn T quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa án, nên không có lời khai tại hồ sơ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét, đánh giá khách quan, đầy đủ, toàn diện, trong mối liên hệ giữa các tài liệu, chứng cứ Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Chị Nguyễn Thị Ái N và anh Phạm Văn T tự do đăng ký kết hôn vào năm 2011, tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện tìm hiểu yêu thương nhau. Quan hệ giữa chị N và anh T được đăng ký theo đúng trình tự, thủ tục và đúng cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không vi phạm những trường hợp cấm kết hôn nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Nay chị Nguyễn Thị Ái N có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn T và giải quyết việc nuôi con chung. Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung, bị đơn có địa chỉ cư trú trên địa bàn thành phố P, tỉnh Gia Lai nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P theo loại việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử.

[2] Đối với bị đơn anh Phạm Văn T, trong quá trình chuẩn bị xét xử đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn không chấp hành, không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự. Đến phiên tòa hôm nay, bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện ý thức chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của bị đơn không nghiêm túc, không tôn trọng pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật kém; đã từ chối quyền được chứng minh phản đối yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại Điều 91 và phải chịu mọi hậu quả theo Khoản 25 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vì vậy Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử, giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ái N đối với anh Phạm Văn T. Hội đồng xét xử xét thấy sau khi đăng ký kết hôn và về chung sống với nhau cuộc sống không hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, không còn tình thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, chia sẻ, giúp đỡ nhau nên không còn tình nghĩa vợ chồng, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Chị N xin ly hôn, anh T không phản đối, quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành triệu tập để bị đơn trình bày ý kiến, tham gia hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến, không thể tiến hành hòa giải được. Điều này thể hiện trong ý thức của anh T không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân của vợ chồng, không có tư tưởng muốn được chung sống với nhau để đoàn tụ vợ chồng, không có tình nghĩa vợ chồng. Vì vậy cho chị N được ly hôn với anh T là có cơ sở theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ái N và anh Phạm Văn T có 3 con chung là cháu Phạm Gia L, sinh ngày 12/10/2009 (nguyện vọng sống với cha); Phạm Gia M, sinh ngày 02/10/2012 (nguyện vọng sống với cha); Phạm Chí T, sinh ngày 23/11/2015. Chị Nguyễn Thị Ái N có nguyện vọng giao cả ba con chung cho anh T nuôi dưỡng. Xét thấy, chị N hiện nay chưa có công ăn, việc làm ổn định, từ trước đến nay ba con vẫn sống chung với anh T, được anh T chăm sóc phát triển bình thường, xét nguyện vọng của con chưa thành niên, căn cứ quyền lợi mọi mặt và đảm bảo con được chăm sóc, giáo dục, phát triển tốt nhất cả về thể chất và trí tuệ, HĐXX xét thấy cần thiết giao các cháu L, M, T cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chị N cấp dưỡng nuôi con cho anh T để nuôi cháu L mỗi tháng 600.000đ; cháu M cháu T mỗi cháu một tháng là 700.000đ, kể từ ngày 01/11/2019 cho đến khi các con thành niên.

Ngưi không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Ngưi không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định việc cấp dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ái N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét và không đề cập đến trong phần quyết định.

[6] Về tiền án phí: Chị Nguyễn Thị Ái N tự nguyện chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con sung quỹ Nhà nước.

[7]Tại phiên tòa hôm nay đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng theo các thủ tục, trình tự tố tụng mà pháp luật quy định về việc thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, thu thập chứng cứ, có đủ cơ sở để giải quyết vụ án. Đối với các đương sự, nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Nguyễn Thị Ái N được ly hôn với anh Phạm Văn T. Giao cháu Phạm Gia L, Phạm Gia M, Phạm Chí T cho anh T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con cho anh T để nuôi cháu L mỗi tháng 600.000đ; cháu M cháu T mỗi cháu một tháng là 700.000đ, kể từ ngày 01/11/2019 cho đến khi các con thành niên. Buộc chị N phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5; Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; các Điều 70, 91, 143, 144, 147, 227, 228, 235, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 24, 26, Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Áp dụng Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 53; Điều 54; Điều 56; Điều 58; Các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ái N.

1.Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ái N được ly hôn với anh Phạm Văn T.

2.Về con chung: Giao cháu Phạm Gia L, sinh ngày 12/10/2009; Phạm Gia M, sinh ngày 02/10/2012; Phạm Chí T, sinh ngày 23/11/2015 cho anh Phạm Văn T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Chị N tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T để nuôi cháu L mỗi tháng 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng); cháu M cháu T mỗi cháu một tháng là 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng), kể từ ngày 01/11/2019 cho đến khi các con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Ngưi không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Ngưi không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định việc cấp dưỡng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3.Về tiền án phí:

Chị Nguyễn Thị Ái N tự nguyện chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con để sung quỹ Nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001434, ngày 13/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Chị N tiếp tục phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay, đương sự có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:66/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về