Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 66/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15/10/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành xét xử công khai vụ án thụ lý số: 153/2019/TLST-HNGĐ ngày 04/7/2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/8/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/9/2019 và số 44/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24/9/2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Trương Thị T; Sinh năm: 1992

Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt( Có đơn xin xét xử vắng mặt).

-Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị T:

Bà Lê Thị Lý – Trợ giúp viên pháp lý Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa – Chi nhánh số 08. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2.Bị đơn: Anh Bùi Văn P; Sinh năm: 1982

Địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/6/2019, trong bản tự khai đề ngày 25/7/2019, chị Trương Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn P kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2010 tại Ủy ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới tình cảm vợ chồng hòa thuận được hơn 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ. Thời gian kéo dài khiến cho chị cảm thấy vô cùng mệt mỏi và chán nản. Mặc dù đã được hai bên gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng vẫn không thể hòa hợp được. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 10/2018 cho đến nay và vợ chồng ly thân từ đó, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh P.

Về con cái: Chị và anh P có 02 con chung là Bùi Duy Q, sinh ngày 30/01/2010 và cháu Bùi Thị Quỳnh A sinh ngày 27/9/2014. Khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi cả hai con và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng cho mỗi cháu số tiền là 750.000đ. Hai cháu là 1.500.000đ/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản : Chị T không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chị T xin thay đổi yêu cầu về phần con cái. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Bùi Thị Quỳnh A và giao cháu Bùi Duy Q cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Trong bản tự khai ngày 17 tháng 7 năm 2019, anh Bùi Văn P trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Trương Thị T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2010 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận bình thường. Tuy nhiên thời gian gần đây, chị T thường xuyên đi làm ăn xa và có quan hệ ngoại tình với người đàn ông khác nên muốn ly hôn với anh. Anh xét thấy, các con đang còn quá nhỏ, nếu ly hôn sẽ ảnh hưởng đến con cái nên anh vẫn chấp nhận và tha thứ cho chị T để vợ chồng được đoàn tụ và cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con cái: Anh và chị T có 02 con chung là Bùi Duy Q, sinh ngày 30/01/2010 và cháu Bùi Thị Quỳnh A sinh ngày 27/9/2014. Nếu chị T nhất quyết đòi ly hôn với anh, anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh mỗi tháng cho mỗi cháu là 1.000.000đ.

Về tài sản: Anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của bà Lê Thị Lý: Về hôn nhân, xét thấy chị Trương Thị T và anh Bùi Văn P mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa nên đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho chị T được ly hôn anh P. Về con cái, giao cháu Bùi Thị Quỳnh A, sinh ngày 27/9/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh P trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Duy Q, sinh ngày 30/01/2010. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về án phí, đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án để miễn tiền án phí cho chị Trương Thị T.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Tòa án áp dụng điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh P. Về con cái, giao cháu Bùi Thị Quỳnh A sinh ngày 27/9/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh P trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Duy Q, sinh ngày 30/01/2010. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về án phí, đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án để miễn tiền án phí cho chị Trương Thị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh P không có mặt nên Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt anh P và đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh P được biết.

[3]. Anh P đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh P đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh P.

[5]. Về hôn nhân: Chị Trương Thị T và anh Bùi Văn P kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2010 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, như vậy là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận được hơn 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống và bất đồng trong công việc. Thêm vào đó, vợ chồng lại không có sự tin tưởng nhau trong chuyện tình cảm nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị T và anh P đã sống ly thân đến nay đã hơn 01 năm, không còn quan hệ tình cảm với nhau nữa. Việc này đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận, đồng thời cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Mặc dù anh P yêu cầu được đoàn tụ nhưng lại không đến để hòa giải và không đến tham gia phiên tòa, trong khi đó chị T nhất quyết yêu cầu được ly hôn anh P. HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, nghĩ nên căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị T được ly hôn anh P.

[6].Về con cái: Vợ chồng có hai con chung. Xét thấy, cháu Bùi Thị Quỳnh A là con gái lại đang còn rất nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Còn cháu Bùi Duy Q lớn hơn và lại là con trai, bản thân cháu cũng có nguyện vọng được ở với bố. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cháu A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh P trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[7].Về tài sản: Chị T và anh P không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[8].Về án phí: Chị Trương Thị T là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn (theo Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017), chị T có đơn xin miễn tiền án phí, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị T cũng đề nghị miễn tiền án phí cho chị T, nghĩ nên chấp nhận đề nghị này.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị T được ly hôn anh Bùi Văn P.

2. Về con cái: Giao cháu Bùi Thị Quỳnh A sinh ngày 27/9/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh P trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bùi Duy Q, sinh ngày 30/01/2010. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị T, anh P có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí DSST cho chị Trương Thị T, trả lại cho chị T 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2016/0003705 ngày 04/7/2019.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị T, anh P. Chị T, anh P có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2019/HNGĐ-ST ngày 15/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:66/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về