Bản án 66/2017/HSST ngày 29/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 29/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 29 tháng 8 năm 2017, tại phòng xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 66/2017/HSST, ngày 15 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Đoàn Đức L, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1998, nơi sinh H, Lạng Sơn.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 06/12; Con ông: Đoàn Đức L1; Và bà: Nguyễn Thị M, sinh năm 1960; anh chị em ruột: Không có; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02 tháng 6 năm 2017 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Ngô Văn T, sinh năm 1980.

Trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Ma Thị Nh, sinh năm 1991 (là vợ của người bị hại anh Ngô Văn T).

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Ma Thị Nh, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện hợp pháp của người bị hại, người liên quan chị Ma Thị Nh: Ông Hoàng Văn Lằn – Luật sư cộng tác viên trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1960.

Địa chỉ: Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

3, Chị Hoàng Thị S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

4, Ông Ngô Văn Lợi, sinh năm 1964.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

5, Anh Lương Văn Th, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

6, Anh Phùng Văn T.

Địa chỉ: Thôn H, xã V, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đoàn Đức L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Đoàn Đức L không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 04/5/2017, sau khi uống bia tại nhà ở Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Đoàn Đức L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 sang thôn Đ, xã Y, huyện H chơi. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Lộc điều khiển xe đi về nhà, khi đến Km 7 đường tỉnh lộ 244 thuộc địa phận thôn Đ, xã Y, huyện H, Đoàn Đức L điều khiển xe mô tô đi sang phần đường bên trái theo hướng đi xã Qu để tránh ổ gà. Cùng lúc đó, Ngô Văn T, trú tại Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 đi ngược chiều nên xe mô tô của Đoàn Đức L đã đâm vào xe mô tô do T điều khiển. Hậu quả Ngô Văn T tử vong, Đoàn Đức L bị thương được đưa đi cấp cứu, hai xe mô tô bị hư hỏng.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi ngày 05/5/2017 và bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 3179/17/GĐPY ngày 08/5/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận Ngô Văn T chết do đa chấn thương do tai nạn giao thông.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường xác định: Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, mặt đường trải nhựa cấp phối rộng 3,7m có ổ gà và sống trâu, sát với mép đường bên phải được đổ bê tông xi măng để đi vào cổng nhà dân. Lề đường đất, sỏi bên trái theo hướng xã Qu - xã M rộng 2,7m. Vị trí xảy ra tai nạn ở gần giữa đường, lệch về phần đường bên phải hướng xã Qu - xã M. Các dấu vết để lại được đo về mép đường bên phải theo hướng xã Qu - xã M (Y), cụ thể:

Đo từ Km7 đường tỉnh lộ 244 về hướng xã M 88,6m là đầu vết mài trượt liền hình cung màu đen (vết 1) có kích thước 0,29m x 0,16m, đầu vết cách mép đường bên phải 1,70m; cuối vết cách mép đường bên phải 1,95m. Cuối vết 1 trùng với đầu vết dầu văng nhỏ giọt trên đường (vết 2) văng theo hướng xã Qu - xã M có kích thước 0,84m x 0,90m, cuối vết 2 cách mép đường bên phải 2,30m và cạnh bánh lốp trước bên trái của xe mô tô biển kiểm soát 12H1- 2674.

Đo từ cuối vết 1 về hướng xã M 1,41m là đầu vết cà trượt liền ngang, hơi chếch về hướng xã M (vết 3) có kích thước 0,53m x 0,07m, đầu vết 3 nằm trên mặt đường cách mép đường bên phải 3,10m; cuối vết 3 nằm trên lề đường đất bên trái cách mép đường bên phải 3,73m.

Vùng mảnh nhựa vỡ có kích thước 2,10m x 2,33m (4), đầu vùng 4 rơi trên đầu vết 2, cuối vùng 4 rơi ngang với đuôi xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 và cách mép đường bên phải 1,80m.

Đo thẳng từ cuối vết 1 về hướng xã M 0,90m là đầu trục bánh trước bên trái của xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 đã được dựng lên bằng chân chống phụ, đầu xe hướng về phía Qu, đuôi xe hướng về phía M. Đầu trục bánh trước bên trái của xe cách mép đường bên phải 2,55m, đầu trục bánh sau bên trái của xe cách mép đường bên phải 2,75m.

Đo từ đầu trục bên trái bánh sau xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 chếch vào tâm đường về phía M 1,85m là đầu trục bánh sau của xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235. Xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 bị đổ về bên phải, đầu xe hướng về mép đường bên phải hơi chếch về phía xã Qu, đuôi xe hướng về mép đường bên trái hơi chếch về phía xã M. Đầu trục bánh sau của xe cách mép đường bên phải 1m; đầu trục bánh trước trùng với mép đường bên phải.

Đo thẳng từ đầu trục bên trái bánh sau xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 về hướng xã M 1,10m là đầu vùng dung dịch nhỏ giọt màu đỏ nghi là máu (vùng 5) có kích thước 3,160m x 0,65m; đầu vùng 5 cách mép đường bên phải 0,90m; cuối vùng 5 cách mép đường bên phải 1,40m. Đo thẳng từ đầu trục bên phải bánh trước xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 về hướng xã Qu 1,70m là tâm vùng dung dịch nhỏ giọt màu đỏ nghi là máu (vùng 6) có kích thước 0,14m x 0,10m. Tâm vùng 6 cách mép đường bên phải 3,80m.

Kết quả khám nghiệm phương tiện ngày 05/5/2017 xác định: Xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 và xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 các dấu vết hỏng hóc do tai nạn tập trung ở phần đầu và phía trước thân xe.

Tại bản giám định kỹ thuật số 43/GĐKT-ĐK ngày 25 tháng 5 năm 2017, của Công ty Cổ phần Đăng kiểm xe cơ giới tỉnh Lạng Sơn kết luận: Trước khi xảy ra tai nạn, các hệ thống an toàn của xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 đầy đủ, hoạt động bình thường và đảm bảo an toàn kỹ thuật. Xe mô tô 12H1-2674 có hệ thống lái và hệ thống phanh đầy đủ cơ cấu, hoạt động bình thường, đảm bảo an toàn kỹ thuật; hệ thống đèn chiếu sáng phía trước, các đèn tín hiệu, còi bị phá hủy nên không có đủ cơ sở để kết luận; không có gương quan sát phía sau theo quy định.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 05 tháng 6 năm 2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận giá trị thiệt hại do tai nạn của xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 là 2.260.000 đồng.

Tại biên bản kiểm tra nồng độ cồn lập hồi 23 giờ 55 phút ngày 04 tháng 5 năm 2017 của Công an huyện H đối với Đoàn Đức L, kết quả đo được là 0,561 miligam/1 lít khí thở.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn, Đoàn Đức L thông qua gia đình đã hỗ trợ gia đình Ngô Văn T 5.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận bồi thường 50.000.000 đồng nhưng hiện Đoàn Đức L vẫn chưa bồi thường được.

Bản Cáo trạng số: 69/VKS-HS, ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đoàn Đức L về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ "theo điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đoàn Đức L giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của mình và khẳng định bị cáo bị truy tố, xét xử về hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là đúng. Người đại diện hợp pháp của người bị hại, người liên quan chị Ma Thị Nh trình bầy: Gia đình chị đã nhận được tiền bồi thường do bị cáo và gia đình bị cáo bồi thường là 5.000.000 đồng, nay chị yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm 50.000.000 đồng cho toàn bộ sự việc tai nạn xẩy ra đối với chồng chị là anh Ngô Văn T, ngoài ra chị không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về dân sự, về phần hình phạt chị yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật. Bị cáo chấp nhận bồi thường thêm cho gia đình người bị hại chị Ma Thị Nh là 50.000.000 đồng.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Đức L phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Về hình phạt: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; các Điều 33, 45, 47 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đoàn Đức L từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, 585, 586, 589, 591, 357 Bộ luật dân sự, đề nghị công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại, bị cáo Đoàn Đức L phải bồi thường thiệt hại thêm cho gia đình người bị hại chị Ma Thị Nh 50.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Đoàn Đức L: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12H1- 2674.

Tịch thu tiêu hủy: 07 mảnh nhựa không rõ hình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

XÉT THẤY

Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra.

Bị cáo Đoàn Đức L không có giấy phép lái xe theo quy định, khoảng 22 giờ ngày 04/5/2017, sau khi đã uống bia với nồng độ cồn là 0,561 miligam/1 lít khí thở, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 đi đến Km 7 đường tỉnh lộ 244 theo hướng xã Y đi xã Qu để về nhà ở Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, do không tuân thủ các quy tắc về an toàn giao thông đường bộ, đi không đúng phần đường nên đã đâm vào xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 do Ngô Văn T điều khiển đi ngược chiều làm Ngô Văn T tử vong. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người đại diện người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đoàn Đức L phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số: 69/VKS- HS, ngày 14 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đoàn Đức L về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Đoàn Đức L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 tham gia giao thông khi không có giấy phép lái xe theo quy định và có nồng độ cồn là 0,561 miligam/1 lít khí thở, đi không đúng phần đường gây tai nạn làm một người chết đã vi phạm Khoản 5 Điều 4, Khoản 8, Khoản 9 Điều 8 và Khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ.

Đây là vụ tai nạn giao thông đường bộ xẩy ra hậu quả là nghiệm trọng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định và trong hơi thở có nồng độ cồn vượt quá quy định, nhận thức được việc khi tham gia giao thông phải chấp hành luật giao thông đường bộ nhưng khi tham gia giao thông không chấp hành luật giao thông đường bộ nên dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó cần được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, để giáo dục bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho những người tham gia giao thông phải chấp hành luật giao thông đường bộ.

Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, bị cáo không có tiền án, tiền sự, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; bị cáo đã tác động gia đình hỗ trợ bồi thường thiệt hại, khắc phuc hậu quả cho gia đình người bị hại nên bị cáo được hưởng tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; người bị hại cũng có lỗi khi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định, không tuân thủ các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, điều khiển xe đi vào gần giữa đường nên bị cáo được hưởng tỉnh tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung, nhưng cũng xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình phạt, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội nhưng cũng xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, tự giác cải tạo tốt, để trở thành người có ích cho xã hội. Bị cáo thuộc hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là đúng với quy định của pháp luật.

Đối với Ngô Văn T, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 tham gia giao thông khi không có giấy phép lái xe theo quy định, không tuân thủ các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, điều khiển xe đi vào gần giữa đường là vi phạm Khoản 5 Điều 4, Khoản 9 Điều 8, Khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ. Tuy nhiên, Ngô Văn T đã chết nên không đặt vấn đề xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại, người liên quan chị Ma Thị Nh đã tự thỏa thuận bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thêm cho gia đình người bị hại chị Ma Thị Nh toàn bộ thiệt hại do vụ tai nạn giao thông xẩy ra là 50.000.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện và đúng với quy định của của pháp luật nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại. Bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại chị Ma Thị Nh là 50.000.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án:

 01 xe mô tô biểm kiểm soát 12F9-8235 là tài sản chung của gia đình người bị hại Ngô Văn T mua lại của Ngô Văn L, trú tại Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi làm rõ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 12F9-8235 cho chị Ma Thị Nh là vợ của người bị hại Ngô Văn T.

01 xe mô tô biển kiểm soát 12H1-2674 là xe của bị cáo Đoàn Đức L mua lại của gia đình bà Hoàng Thị S, trú tại Thôn K I, xã Qu, huyện H, tỉnh Lạng Sơn (chiếc xe được mua bán nhiều lần, đăng ký xe mang tên Phùng Văn T), chiếc xe do bị cáo mua về để sử dụng làm phương tiện đi lại, tại phiên tòa bị cáo xin lại chiếc xe, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên trả lại chiếc xe mô tô cho bị cáo. 

07 mảnh nhựa không rõ hình, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêuhủy.

 Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Đức L phạm tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ".

2. Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; các Điều 33, 45 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Đức L 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam, ngày 02 tháng 6 năm 2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589, 591, 357 Bộ luật dân sự.

Bị cáo Đoàn Đức L phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại chị Ma Thị Nh toàn bộ số tiền do tai nạn giao thông xẩy ra là 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

4. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm b, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo Đoàn Đức L: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12H1- 2674.

Tịch thu tiêu hủy: 07 mảnh nhựa không rõ hình.

 (Theo biên bản giao, nhân vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ngày 15 tháng 8 năm 2017).

5. Về án phí: Áp dụng điều 98, khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đoàn Đức L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 2.500.000 đồng (hai triệu trăm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng bị cáo phải chịu 2.700.000 đồng (hai triệu bẩy trăm nghìn đồng) tiền án phí để sung quỹ Nhà nước.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2017/HSST ngày 29/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:66/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về