Bản án 66/2017/HSST ngày 13/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 66/2017/HSST NGÀY 13/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 62/2017/HSST ngày 17 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Đào Duy N, sinh ngày 03/5/1997,  tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; giới tính: Nam; nơi cư trú: Thôn P, thị trấn A, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; con ông: Đào Duy M và bà Ninh Thị P, vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ  và tạm giam  tại Công an huyện Chi Lăng từ ngày 25/9/2017: Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đào Duy N bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại thôn P, thị trấn A, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Công an huyện Chi Lăng bắt quả tang Đào Duy N và Linh Văn U có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng thu trong lòng bàn tay phải của U. U khai nhận là chất ma túy vừa mua của N với giá 200.000 đồng, số tiền 230.000 đồng thu trong túi quần đằng sau đang mặc của N, N khai số tiền trên, có 200.000 đồng là tiền vừa bán ma túy cho U. Cùng ngày Công an huyện Chi Lăng tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của N thu giữ được 01 vỏ chai nhựa màu trắng có cắm vòi hút màu hồng và cóng màu trắng, 01 cây kim bằng kim loại màu trắng dài 13cm, 04 túi nilon màu trắng, 01 chiếc cân điện tử, kích thước 4cm x 8cm nắp màu đen đã qua sử dụng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 màu vàng, đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 344/KL-PC54 ngày 27/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine,  có trọng lượng 0,093 gam.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Đào Duy N khai nhận vào khoảng 12 giờ ngày 25 tháng 9 năm 2017  bị cáo đang ở nhà, thì Linh Văn U gọi điện thoại hỏi mua ma túy, bị cáo đồng ý và hẹn U lên nhà mình. Sau đó, bị cáo đi xuống cầu S thuộc thôn L, thị trấn A, huyện C mua 01 túi nhỏ nilon trong suốt bên trong có chứa ma túy Methamphetamine  (dạng ma túy đá) với giá 200.000 đồng, với một người đàn ông thanh niên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ). Sau khi mua được ma túy, bị cáo đem về nhà lấy một phần ra để sử dụng, số còn lại bị cáo N bán lại cho Linh Văn U. Khoảng hơn 12 giờ ngày 25 tháng 9 năm 2017 thì U đi đến nhà bị cáo để mua ma túy, bị cáo đã bán cho U 01 túi nilon bên trong chứa ma túy với giá 200.000 đồng. Khi U cầm túi nilon có chứa ma túy để đi về thì bị Công an huyện Chi Lăng phát hiện bắt quả tang.

Đối với Linh Văn U được mua ma túy với Đào Duy N vào ngày 25 tháng 9 năm 2017 mục đích để sử dụng. Số ma túy U mua chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an huyện Chi Lăng đã chuyển hồ sơ cho Công an xã nơi đối tượng cư trú để xử lý hành chính.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo ở cầu S, thuộc thôn L, thị trấn A, huyện C. Do không có thông tin cụ thể nên không thể điều tra, xác minh.

Tại bản cáo trạng số: 62/CT-VKS ngày 17/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Đào Duy N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Duy N phạm Tội mua bán trái phép chất ma túy; Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đào Duy N từ 2 đến 3 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên;

Tịch thu số tiền 200.000 đồng do bị cáo bán trái phép ma túy cho Linh Văn U, để sung công quỹ Nhà nước. Trả lại cho bị cáo 30.000 đồng vì không liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy.

Tịch thu và sung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 màu vàng, đã qua sử dụng.

Tịch thu và tiêu hủy: 0,067g Methamphetamine (đã niêm phong); 01 vỏ chai nhựa màu trắng có cắm vòi hút màu hồng và cóng màu trắng; 01 cây kim bằng kim loại màu trắng dài 13cm; 04 túi nilon màu trắng;  01 chiếc cân điện tử, kích thước 4cm x 8cm nắp màu đen đã qua sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của kiểm sát viên.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Đào Duy N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 25 tháng 9 năm 2017 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm mà  bị cáo đi xuống cầu S thuộc thôn L, thị trấn A, huyện C mua ma túy với một người đàn ông thanh niên (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) về bán lại cho Linh Văn U với số tiền là 200.000 đồng. Khi U cầm túi nilon có chứa ma túy để đi về thì bị Công an huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang. Theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 3.3 mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm  sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, thì hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hội đồng xét xử xác định; bản cáo trạng số 62 /CT-VKS ngày 17/11/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đào Duy N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan.

Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo Đào Duy N có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương và xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước ta đối với các chất gây nghiện. Hành vi đó còn tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, sức khỏe của con người, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống, kinh tế của gia đình và sự phát triển giống nòi, làm suy thoái đạo đức lố i sống và là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Hội đồng xét xử xét thấy; cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để bị cáo tự tu dưỡng rèn luyện bản thân và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; mặc dù bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhưng đã nhiều lần đi mua ma túy về sử dụng và bán lai cho người khác để kiếm lời, do đó bị cáo bị coi là có nhân thân xấu. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 của Bộ luật hình sự.

Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng tại phiên tòa đã phân tích tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và mức đề nghị của Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 2 đến 3 năm là phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, thuộc diện hộ nghèo, do đó không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Linh Văn U có hành vi mua ma túy với bị cáo về sử dụng, nhưng chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chi Lăng đã chuyển hồ sơ đến Công an thị trấn Chi Lăng nơi cư trú để xử lý hành chính là có cơ sở.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo ở cầu S, thuộc thôn L, thị trấn A, huyện C, do không có địa chỉ cụ thể nên không thể điều tra, xác minh.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu và sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

Trả lại cho bị cáo 30.000 đồng do không liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy.

Tịch thu và sung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệ u Nokia 6300 màu vàng, đã qua sử dụng

Tịch thu và tiêu hủy: 0,067g Methamphetamine  (đã niêm phong); 01 vỏ chai nhựa màu trắng có cắm vòi hút màu hồng và cóng màu trắng; 01 cây kim bằng kim loại màu trắng dài 13cm; 04 túi nilon màu trắng;  01 chiếc cân đ iện tử, kích thước 4cm x 8cm nắp màu đen đã qua sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Duy N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Duy N 03 (ba) năm tù thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giam ngày 25 tháng 9 năm 2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy: 0,067g Methamphetamine  (đã niêm phong), 01 vỏ chai nhựa màu trắng có cắm vòi hút màu hồng và có ng màu trắng nắm màu đen, 01 cây kim bằng kim loại dài 13cm, 04 túi nilon màu trắng, 01 chiếc cân điện tử kích thước 04cm x 08cm.

Tịch thu và sung công quỹ Nhà nước 200.000 đồng. Trả lại cho bị cáo 30.000 đồng.

Tịch thu và sung Công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 màu vàng, đã qua sử dụng, không có bàn phím, cũ hỏng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chi Lăng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chi Lăng ngày 24 tháng 11 năm 2017 và theo ủy nhiệm chi ngày 20 tháng 11 năm 2017.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

ơBị cáo Đào Duy N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung Công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2017/HSST ngày 13/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:66/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về