Bản án 656/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 656/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1001/2018/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 201 9 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hà Kim N, sinh năm: 1993 (có mặt) Địa chỉ: 18 Đặng Văn Bi, Khu phố 4, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh

Bị đơn: Ông Nguyễn Duy N, sinh năm: 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: 1332/5 Nguyễn Xiển, Tổ 3, khu phố Thái Bình 2, phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản tự khai và các biên bản làm việc tại Tòa án, nguyên đơn bà Hà Kim N trình bày:

Bà và ông Nguyễn Duy N chung sống với nhau từ năm 2015, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2015 ngày 20/01/2015. Sau ngày cưới,

Bà và ông N sống chung tại Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian chung sống, lúc đầu hạnh phúc về sau không hạnh phúc do tính tình hai vợ chồng trái ngược nhau nên thường dẫn đến gây gổ. Hiện nay tình cảm vợ chồng rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà đã cố gắng hết sức nhưng không thể hàn gắn, đoàn tụ được. Nay Bà xin ly hôn với ông Nguyễn Duy N. Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hà Đăng Khoa, sinh ngày 11/4/2016, hiện đang chung sống với ông N. Bà yêu cầu ông Nguyễn Duy N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa, Bà không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Duy N; yêu cầu ông Nguyễn Duy N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa và không cấp dưỡng nuôi con. Nguyên đơn khai nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung và nợ chung.

Bị đơn ông Nguyễn Duy N vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận C phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong quá trình thụ lý, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng, xác minh, thu thập chứng cứ, cấp, tống đạt văn bản tố tụng, thời hạn tố tụng. Về nội dung, do nguyên đơn đã không còn tình cảm với bị đơn, không còn mong muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Hà Kim N. Về con chung, do từ trước đến nay bị đơn trực tiếp nuôi con; nguyên đơn đề nghị bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đề nghị Tòa án chấp nhận cho bị đơn tiếp tục nuôi dưỡng con chung, nguyên đơn không cấp dưỡng nuôi con. Việc thăm nom con sau ly hôn được áp dụng theo Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Ông Nguyễn Duy N và bà Hà Kim N tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn (số 10/2015 do Ủy ban nhân dân phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/01/2015). Nay bà Hà Kim N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Duy N; yêu cầu ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đây là quan hệ tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N đều có quốc tịch Việt Nam. Kết quả xác minh tại Công an phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xác định được bị đơn là ông Nguyễn Duy N hiện đang cư trú tại địa chỉ 1332/5 Nguyễn Xiển, Tổ 3, khu phố Thái Bình 2, phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận C theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Nội dung tranh chấp:

Nguyên đơn xác định Bà và ông Nguyễn Duy N không hạnh phúc do tính tình vợ chồng trái ngược nhau nên thường dẫn đến gây gổ. Nay Bà yêu cầu Tòa án chấp nhận cho Bà được ly hôn với ông Nguyễn Duy N. Đồng thời yêu cầu ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa, sinh ngày 11/4/2016, không cấp dưỡng nuôi con.

Bị đơn ông Nguyễn Duy N đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ nhưng ông Nguyễn Duy N vắng mặt, không tham dự các buổi hòa giải, làm việc, công khai chứng cứ cũng như không tham dự phiên tòa.

Hội đồng xét xử nhận thấy giữa bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N chung sống với nhau từ năm 2015, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2015 ngày 20/01/2015 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Giữa bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N trên thực tế đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N do tính cách không hợp nhau dẫn tới thường xuyên cãi vả, gây gổ làm cho cuộc sống hôn nhân mất hạnh phúc. Bị đơn, ông Nguyễn Duy N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham dự các buổi hòa giải, làm việc cũng như dự phiên tòa hôm nay nhưng ông Nguyễn Duy N không đến, thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến cuộc sống hôn nhân với bà Hà Kim N. Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N đã rạn nứt không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn đối với bị đơn.

- Về con chung: Ông Nguyễn Duy N và bà Hà Kim N có 01 con chung là trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa, sinh ngày 11/4/2016. Nguyên đơn yêu cầu ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa; không cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy từ khi bà Hà Kim N và ông Nguyễn Duy N xảy ra mâu thuẫn đến nay thì trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa do ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng; bà Hà Kim N yêu cầu Tòa án giao trẻ Khoa cho ông Nguyễn Duy N tiếp tục nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải thay đổi môi trường sống hiện tại của trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa nên cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa cho ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: nguyên đơn không cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

- Về tài sản chung: nguyên đơn xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung; bị đơn không có yêu cầu phản tố về phần tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

C ă n c ứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 do Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Hà Kim N với ông Nguyễn Duy N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 10/2015 ngày 20/01/2015 do Ủy ban nhân dân phường L, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Duy N và bà Hà Kim N không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: giao trẻ Nguyễn Hà Đăng Khoa, sinh ngày 11/4/2016 cho ông Nguyễn Duy N trực tiếp nuôi dưỡng. Bà Hà Kim N không cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở. Nếu lợi dụng việc thăm nom, chăm sóc con chung để gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Hà Kim N chịu án phí sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí bà Hà Kim N đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0039973 ngày 16/11/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận C. Bà Hà Kim N đã nộp đủ án phí.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 656/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:656/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về