TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 158/2021/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-DS, ngày 17 tháng 6 năm 2021; các Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2021/QĐST-DS, ngày 08 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 70/2021/QĐST-DS, ngày 28 tháng 7 năm 2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 13/2021/TB-TA, ngày 14 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Tuyết N, sinh năm 1991 (Vắng mặt). Địa chỉ: Tổ 0, ấp T, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Bị đơn: Ông Trần Thanh Q, sinh năm 1992 (Vắng mặt). Địa chỉ: Tổ 0, ấp B, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn bà Trần Thị Tuyết N trình bày:
Bà và ông Trần Thanh Q tự nguyện tìm hiểu, yêu thương và chung sống với nhau vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo giấy chứng nhận kết hôn số 75/2018, ngày 18-5-2018. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong mọi vấn đề. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần tự hòa giải và thông cảm bỏ qua cho nhau những mâu thuẫn để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình, nhưng không thành, trái lại mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể khắc phục được. Do đó, từ tháng 4 năm 2021 ông Q đã bỏ về nhà cha mẹ ruột của mình tại ấp B, xã P, huyện X sinh sống, vợ chồng chính thức ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan hệ gì với nhau về mọi mặt và cũng không gặp gỡ để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà N yêu cầu được ly hôn với ông Q.
- Về con chung: Bà N và ông Q có 01 con chung tên Trần Gia P, sinh ngày 04-9- 2020. Sau khi ly hôn bà N có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông Q phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Đối với bị đơn ông Trần Thanh Q:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng ông Q vẫn không đến Tòa án tham gia giải quyết. Tòa án cũng không nhận được văn bản ghi ý kiến hay bản tự khai của ông Q.
Tài liệu, chứng cứ Tòa án xác minh, thu thập được xác định: Ông Q có địa chỉ cư trú tại tổ 0, ấp B, xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Quá trình chung sống với bà N vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn nên tháng 4 năm 2021 ông Q đã tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột của mình tại ấp B, xã P, huyện X sinh sống; Bà N hiện đang sống cùng con và tự chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến nay.
Tại phiên tòa: Ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vì trở ngại khách quan nên Tòa án hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tòa án đã thông báo và tiếp tục triệu tập hợp lệ ông Q để tham gia phiên tòa. Dù vậy, ông Q vẫn vắng mặt không có lý do; Bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung gì thêm. Các đương sự không có thỏa thuận gì về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về phiên tòa sơ thẩm.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:
Trong quá trình tố tụng nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; Bị đơn vắng mặt trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa là không chấp hành quy định theo các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N đối với ông Q. Về quan hệ hôn nhân bà N được ly hôn với ông Q; Về con chung, giao cháu Trần Gia P cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên, ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà N không có yêu cầu; Về quan hệ tài sản, bà N không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
- Về án phí: Bà N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1] Tại đơn khởi kiện, bà N yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với ông Q, được xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; Ông Q có địa chỉ cư trú tại huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vì trở ngại khách quan (Dịch, bệnh Covid-19), nên Tòa án đã hoãn phiên tòa. Sau khi trở ngại khách quan không còn, Tòa án tiếp tục thông báo và triệu tập hợp lệ bị đơn để tham gia phiên tòa, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về áp dụng pháp luật nội dung:
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Tuyết N và ông Trần Thanh Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện X, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu theo giấy chứng nhận kết hôn số 75/2018, ngày 18-5-2018 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Quá trình chung sống bà N và ông Q thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong mọi vấn đề. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần tự hòa giải và thông cảm bỏ qua cho nhau những mâu thuẫn để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình, nhưng không thành, trái lại mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể khắc phục được. Do đó, từ tháng 4 năm 2021 ông Q đã tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột của mình tại ấp B, xã P, huyện X sinh sống, vợ chồng chính thức ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan hệ gì với nhau về mọi mặt và cũng không gặp gỡ để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay, bà N yêu cầu được ly hôn với ông Q.
Tại biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung giữa bà N và ông Q, ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Tòa án thể hiện: Bà N và ông Q là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2018, nhưng hiện nay bà N và ông Q không còn chung sống với nhau do mâu thuẫn tình cảm vợ chồng, ông Q đã tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột của mình tại ấp B, xã P, huyện X sinh sống từ tháng 4 năm 2021; Bà N hiện đang sống cùng con và tự chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến nay.
Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa ông Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, ông Q biết rõ Tòa án đang giải quyết yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con mà ông được xác định là bị đơn nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy bản thân ông Q không có thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ.
Từ những tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp; Thực tế xác minh tại địa phương cho thấy bà N và ông Q đã thực sự không còn tình cảm với nhau, không chung sống cùng nhau, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3.2] Về nuôi con chung: Bà N và ông Q có 01 con chung là Trần Gia P. Sau khi ly hôn bà N có nguyện vọng được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông Q phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ thời gian vợ chồng ly thân, con sống ổn định cùng bà N và được chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo, bà N cũng có thu nhập từ việc kinh doanh, buôn bán. Mặt khác, bản thân ông Q cũng không có yêu cầu về tranh chấp nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của bà N. Giao con chung cho bà N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà N không yêu cầu ông Q phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận.
[3.3] Về quan hệ tài sản: Bà N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Tuy nhiên, do ông Q vắng mặt trong quá trình tố tụng và không có yêu cầu gì nên đối với quan hệ này sẽ được giải quyết khi đương sự có yêu cầu.
[4] Về án phí: Bà N là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tố tụng Dân sự.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Tuyết N ly hôn ông Trần Thanh Q.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung tên Trần Gia P, sinh ngày 04-9-2020 cho bà Trần Thị Tuyết N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con thành niên (Đủ 18 tuổi);
2.2. Ông Trần Thanh Q không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Trần Thị Tuyết N không có yêu cầu.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ đối với con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì quyền lợi của con chưa thành niên, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể xem xét quyết định việc hạn chế quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về quan hệ tài sản: Không xem xét, giải quyết do nguyên đơn không yêu cầu.
4. Về án phí: Bà Trần Thị Tuyết N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà N đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2020/0009270, ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện X, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu. Bà N đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 24/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 65/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về