Bản án 65/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 65/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HS ngày 14/9/2020, đối với bị cáo:

- Nguyễn Văn T - sinh năm 1990; nơi cư trú: thôn 4 T, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Thu H; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 10/5/2020, bị Công an xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: ngày 20/8/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 30/8/2016. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/7/2020 đến ngày 16/7/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị Nh - sinh năm 1956; nơi cư trú: thôn T, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Ông Phạm Xuân Th - sinh năm 1975 và bà Phạm Thị Ng - sinh năm 1981; người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Xuân Th: bà Phạm Thị Ng - sinh năm 1981; cùng nơi cư trú: tổ dân phố BN, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1976 và bà Bùi Thị H1 - sinh năm 1982;

người đại diện theo ủy quyền của bà Bùi Thị H1: ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1976; cùng nơi cư trú: thôn Lời, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị C - sinh năm 1984; nơi cư trú: thôn 1 T, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Bà Đỗ Thị K - sinh năm 1970; nơi cư trú: thôn ĐK, xã YN, huyện YY, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị Thu H - sinh năm 1970; nơi cư trú: thôn 4 T, xã TH,

huyện TL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Phạm Ngọc L - sinh năm 1978; vắng mặt.

2. Anh Trần Văn T - sinh năm 1991, vắng mặt;

3. Chị Phạm Thị P - sinh năm 1994, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 29/6/2020 đến ngày 06/7/2020, Nguyễn Văn T đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn 03 xã thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam với mục đích tiêu sài cá nhân; cụ thể:

1. Vụ thứ nhất: khoảng 08 giờ ngày 29/6/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS 90B2-75... đi đến khu vực thôn Thong, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam với mục đích trộm cắp tài sản. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến trước cổng nhà bà Nguyễn Thị Nh ở thôn T, xã TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam, thì dừng xe lại. Quan sát thấy một số bao tải màu trắng đựng thóc để trước hiên nhà anh Trần Văn T, cửa cổng đóng, chốt phía trong nhưng không khóa, xung quanh không có ai, nên T mở cổng rồi dắt xe mô tô vào phía trong. T dựng xe ở sân, quay đầu xe hướng ra cổng và đi bộ lên hiên nhà anh T, lần lượt bê 02 bao tải bên trong đựng thóc Khang Dân, mang ra để lên xe mô tô, rồi điểu khiển xe chở đến cửa hàng thu mua lúa, gạo của chị Nguyễn Thị C ở thôn 1 T, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam. Tại đây, T cân 02 bao thóc được 50 kg và bán cho chị C được 460.000 đồng, rồi tiêu sài cá nhân hết. Quá trình điều tra xác định đây là thóc của bà Nguyễn Thị Nh để trước hiên nhà anh T (nhà anh T nằm trong khuôn viên vườn của nhà bà Nh, hai nhà đi chung một cổng).

2. Vụ thứ hai: khoảng 14 giờ ngày 29/6/2020, T tiếp tục điều khiển chiếc xe mô tô trên đi từ nhà đến khu vực thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam với mục đích trộm cắp tài sản. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến trước cổng nhà bà Phạm Thị Ng ở tổ dân phố BN, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam, thì dừng xe lại. Quan sát thấy nhà bà Ng khóa cửa, khóa cổng, trong sân để nhiều bao tải đựng thóc xếp thành đống, phía bên trái sát cạnh nhà có một bờ tường cao khoảng 01m, phía trên bờ tường rào bằng lưới B40 đến mái tôn để ngăn cách giữa vườn chuối và sân. T nhìn thấy phía tây hiên nhà có 01 ô thoáng kích thước (0,9 x 1,5)m, cao cách mặt đất khoảng 01m, không có cửa và rào chắn, nên T dắt xe mô tô vào dựng ở khu vực vườn chuối và quay đầu xe ra đường. Sau đó, T trèo qua ô thoáng vào trong sân, lần lượt bê 02 bao tải màu xanh đựng thóc Khang Dân ra để trên xe mô tô và điều khiển xe chở 02 bao thóc đến nhà chị Nguyễn Thị C cân được 96kg. Khi cân xong, T nói với chị C còn bao thóc nữa để T quay về nhà lấy rồi tính tiền sau, chị C đồng ý. T tiếp tục điều khiển xe mô tô quay lại nhà bà Ng, trèo qua ô thoáng vào trong sân nhà bà Ng, bê 01 bao tải màu đỏ bên trong đựng thóc Nếp ra để lên xe mô tô và chở bao thóc đến nhà chị C, cân được 45 kg. T bán 03 bao trên cho chị C được 960.000 đồng và đã tiêu sài cá nhân hết.

3. Vụ thứ ba: vẫn với thủ đoạn trên, khoảng 08 giờ 30 phút ngày 06/7/2020, T điều khiển chiếc trên xe mô tô trên đi đến khu vực thôn Lời, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước cổng nhà ông Nguyễn Văn H ở thôn Lời, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam, thì T dừng xe lại. Quan sát thấy cửa nhà, cửa cổng nhà ông H khóa, khu vực kho chứa đồ giáp với nhà ở của ông H để nhiều bao tải thóc được xếp chồng lên nhau, xung quanh không có ai. T điều khiển xe mô tô đi ra phía sau bên trái nhà ông H, cho xe quay đầu và dựng xe ở đó. Sau đó, T đi bộ theo khoảng đất trống giữa tường nhà và tường bao rồi trèo qua bờ tường gạch xỉ cao khoảng 0,8 mét và đi vào khu vực kho chứa đồ nhà ông H. T lần lượt bê 02 bao tải bên trong đựng thóc Bắc Thơm (01 bao tải màu cam đỏ và 01 bao tải màu vàng) để lên bờ tường gạch xỉ, rồi T trèo qua bờ tường gạch xỉ ra ngoài và bê 02 bao tải thóc để lên xe mô tô. T chở 02 bao thóc trộm cắp được đến cửa hàng thu mua lúa, gạo của bà Đỗ Thị K trú tại thôn ĐK, xã YN, huyện YY, tỉnh Nam Định cân được 87kg và bán cho bà K được 680.000 đồng, số tiền này T tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, bà Nguyễn Thị Nh, bà Phạm Thị Ng và ông Nguyễn Văn H đã làm đơn trình báo Công an huyện Thanh Liêm. Nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, đồng thời tiến hành điều tra và bắt giữ Nguyễn Văn T.

* Tài sản, vật chứng thu giữ: Thu giữ tại hiện trường vụ việc nhà ông Nguyễn Văn H một số hạt thóc. Thu giữ của Nguyễn Văn T 01 (một) xe mô tô BKS 90B2-75... cùng đăng ký xe mô tô. Bà Đỗ Thị K tự nguyện giao nộp 02 bao tải đựng thóc Bắc Thơm có tổng trọng lượng 87kg và 01 đầu thu camera. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn T, Cơ quan điều tra không thu giữ gì.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 13/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận: “giá 1 kg thóc Bắc Thơm (đã phơi khô) có giá là 8.400 đồng/1kg. Vậy 87kg thóc Bắc Thơm có giá 730.800 đồng (bảy trăm ba mươi nghìn tám trăm đồng chẵn)”.

 Tại bản kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐGTS ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Liêm kết luận: “giá trị của 01kg thóc Nếp tại thời điểm ngày 29/6/2020 là 7.700 đồng/01kg; giá trị của 01kg thóc Khang Dân tại thời điểm ngày 29/6/2020 là 7.200 đồng/01kg. Vậy giá trị của 50kg thóc Khang Dân tại thời điểm ngày 29/6/2020 là 360.000 đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng); giá trị của 96kg thóc Khang Dân tại thời điểm ngày 29/6/2020 là 691.200 đồng (sáu trăm chín mốt nghìn hai trăm đồng); giá trị của 45kg thóc Nếp tại thời điểm ngày 29/6/2020 là 346.500 đồng (ba trăm bốn mươi sáu nghìn năm trăm đồng).

* Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Văn H 87kg thóc Bắc Thơm, trả cho bà Đỗ Thị K 01 đầu thu camera và trả cho bà Nguyễn Thị Thu H 01 xe mô tô BKS 90B2-75... cùng đăng ký xe. Ông H, bà K, bà H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

* Về trách nhiệm dân sự: trong giai đoạn điều tra, Nguyễn Văn T đã tác động nhờ mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Thu H khắc phục hậu quả, bà H đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị Nh 500.000 đồng, bà Phạm Thị Ng 1.000.000 đồng và bà Đỗ Thị K 680.000 đồng. Bà Nh, bà Ng, bà K đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu gì.

Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKSTL ngày 08/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173, các điểm b và s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự - xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy nhiều hạt thóc thu giữ tại hiện trường.

- Bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị Thu H không có yêu cầu, đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,

 quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị hại, biên bản hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu sài cá nhân, khoảng khoảng 08 giờ 30 ngày 29/6/2020, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS 90B2-75... đến thôn Thong, xã Thanh Tâm, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, lén lút trộm cắp 02 bao thóc Khang Dân có tổng trọng lượng 50kg (trị giá 360.000 đồng) của bà Nguyễn Thị Nh. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, T tiếp tục điều khiển chiếc xe mô tô trên đến tổ dân phố Ba Nhất, thị trấn Tân Thanh, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam lén lút trộm cắp 02 bao thóc Khang Dân và 01 bao thóc Nếp có tổng trọng lượng 141kg (trị giá 1.037.700 đồng) của nhà bà Phạm Thị Ng. Cũng với thủ đoạn trên, khoảng 08 giờ 30 phút ngày 06/7/2020, T tiếp tục điều khiển xe mô tô trên đến thôn Lời, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, lén lút trộm cắp 02 bao thóc Bắc Thơm có tổng trọng lượng 87kg (trị giá 730.800 đồng) của nhà ông Nguyễn Văn H.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương và bức xúc trong quần chúng nhân dân. Tài sản mỗi lần mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng do bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa mà còn vi phạm, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên”.

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã “tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b và s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo đã bị kết án và đã bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội, mà lại tiếp tục phạm tội. Qua đó, thể hiện sự coi thường pháp luật, không chịu cải tạo. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, nên miễn phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu, đề nghị gì; nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với một số hạt thóc thu giữ tại hiện trường hiện không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 87kg thóc Bắc Thơm và 01 đầu thu camera: quá trình điều tra xác định 87kg thóc Bắc Thơm là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn H, 01 đầu thu camera là tài sản hợp pháp của bà Đỗ Thị K; Cơ quan điều tra đã trả lại các tài sản trên cho các chủ sở hữu là đúng pháp luật.

- Đối với xe mô tô BKS 90B2-75... cùng đăng ký xe: chiếc xe trên là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thu H (mẹ đẻ T). Ngày 29/6/2020 và ngày 06/7/2020, bà H để chiếc xe này ở nhà, T tự ý lấy xe làm phương tiện để trộm cắp tài sản, bà H hoàn toàn không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà H chiếc xe mô tô trên cùng đăng ký xe là đúng pháp luật.

[6] Về các vấn đề khác:

- Đối với hành vi của chị Nguyễn Thị C và bà Đỗ Thị K: quá điều tra xác định chị C và bà K mua thóc của T theo giá thị trường và hoàn toàn không biết đây là tài sản do T trộm cắp mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm đối với chị C và bà K là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173, các điểm b và s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 07/7/2020.

2. Xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy nhiều hạt thóc Bắc Thơm (tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/9/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về