Bản án 65/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 65/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2020/HSST ngày 26/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXXST-HS ngày 12/5/2020 đối với bị cáo:

Ngô Trần V; Giới tính: Nam; sinh năm 1994 tại tỉnh Bến Tre; Hộ khẩu thường trú: huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; Chỗ ở: quận Gò Vấp,, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Ngô Minh Đ và bà Nguyễn Thị L; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Lê Thị T, có 01 người con sinh năm 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/11/2019 đến ngày 08/01/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại (có mặt).

Bị hại: Ông Nguyễn Văn T; địa chỉ: 158/45/5 Phạm Văn Chiêu, Phường 09, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt):

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Văn T; địa chỉ huyện Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng (vắng mặt):

2/ Bà Trương Như H, địa chỉ: Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt):

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do biết khu nhà trọ số 158/45/5 Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò Vấp có nhiều người để xe gắn máy sơ hở nên V nảy sinh ý định trộm cắp xe máy đem bán lấy tiền tiêu sài. Lúc 17 giờ 00 ngày 21/11/2019, V nhờ Trương Thị Yến Pha (Pha là người chung phòng trọ với V, địa chỉ số 2 của nhà số 14 Đường số 4, Tổ 4, Khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9) điều khiển xe gắn máy hiệu Attila, biển số: 51M6-6490 chở V đến khu phòng trọ, địa chỉ 158/45/5 Phạm Văn Chiêu, phường 9, quận Gò Vấp để chơi với bạn. Khi đến nơi, V đứng ở cổng của dãy phòng trọ, còn Pha đi đến chợ Hạnh Thông Tây mua đồ. Do cổng khu nhà trọ khóa bằng vân tay nên V đợi. Một lúc sau, có người dùng vân tay mở cổng đi từ ngoài vào nên V đi theo vào khu nhà trọ. Tại khu vực để xe của nhà trọ, V thấy 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số: 43G1-281.09 của anh Nguyễn Văn Thạch (sinh năm 1999, Nơi cư trú: tổ 30, Hòa An, Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng), không khóa cổ, lúc này V thấy có 01 người phụ nữ dùng vân tay mở cổng đi từ ngoài vào nên V nói với người phụ nữ đừng đóng cửa để V đi ra sẽ đóng. Sau đó, V lén lút dắt xe mô tô biển số:43G1-281.09 ra ngoài cổng và điện thoại cho Pha nhờ Pha quay lại để đẩy giùm xe máy của bạn đi làm ổ khóa do bị mất chìa khóa xe. Pha ngồi trên mô tô Yamaha Exciter biển số 43G1- 281.09 để V điều khiển xe hiệu Attila của Pha, biển số: 51M6-6490 dùng chân đẩy về phòng trọ nơi V và Pha ở số 2 nhà số 14 đường số 4, tổ 4, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, TP.Hồ Chí Minh. Khi về phòng trọ, V cắt dây điện hệ thống định vị của xe Yamaha Exciter. V tiếp tục nhờ Pha ngồi lên xe mô tô Yamaha Exciter để V chạy xe Attila đẩy đi đến 01 điểm làm chìa trên đường Lê Văn Việt, Quận 9 thuê làm 01 chìa khóa của xe Yamaha Exciter. Sau đó V điều khiển xe Yamaha Exciter và Pha điều khiển xe Attila cùng về phòng trọ số 2 nhà số 14 đường số 4, tổ 4, khu phố 2, phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9. Khi V chuẩn bị lấy xe mô tô máy hiệu Yamaha Exciter vừa trộm được để đi chơi thì bị Công an Quận Gò Vấp và Công an phường Tăng Nhơn Phú B, Quận 9 đến phát hiện V cất giấu xe trên trong phòng trọ nên yêu cầu V giao nộp và đến Cơ quan Công an để làm việc (bút lục 47-57; 107-108).

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Ngô Trần V đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được (bút lục 97-106; 120-121).

Đối với Trương Thị Yến P khai không biết việc V nhờ Pha điều khiển xe mô tô gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 43G1-281.09 về quận 9 là tài sản do V trộm của người khác. Lời khai của Pha phù hợp với lời khai của V, ngoài ra không còn chứng cứ nào khác chứng minh Pha là đồng phạm trong vụ án nên không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với Trương Thị Yến Pha.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe môt tô hiệu Yamaha Exciter, biển số: 43G1-281.09, số máy: G3D4E460215, số khung: RLCUG0610HY439714. Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 317/KL ngày 26/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận có giá trị 31.500.000 đồng (BL:41-42). Bị hại anh Nguyễn Văn Thạch khai xe trên là tài sản của Nguyễn Văn Thanh (em trai của anh Thạch, sinh năm 1999, địa chỉ: Tổ 20, Hòa An, Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu. Tháng 3/2019 anh Thạch vào TP.Hồ Chí Minh đi học ở Trường Đại học nên anh Thanh đưa xe cho anh Thạch mang vào TP.Hồ Chí Minh sử dụng đi lại hằng ngày. Tiến hành ủy thác điều tra cho Cơ quan CSĐT – Công an quận Cẩm Lệ, TP.Đà Nẵng, Kết quả: Nguyễn Văn Thanh đang bị Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Thanh Hóa tạm giam về hành vi “Lừa đảo chiến đoạt tài sản”. Tiến hành lấy lời khai của Thanh làm rõ nguồn gốc xe trên, Thanh khai là tài sản của Thanh, phù hợp với lời khai của anh Thạch.

- 01 xe mô tô hiệu Attila, biển số: 51M6-6490, số máy: VMM9BED 033614, số khung: RLGH125GD7D 033614. Qua xác minh, xe do anh Huỳnh Phát, sinh năm 1957, Nơi cư trú số 69 Hàn Hải Nguyên, phường 16, quận 11 đứng tên chủ sở hữu. Xác minh nơi ở của anh Phát được biết anh Phát đã chết và xóa hộ khẩu tại phương từ 03/5/2019, hiện gia đình của anh Phát đã đi đâu không rõ. Trương Thị Yến Pha khai nguồn gốc chiếc xe mô tô hiệu Attila, biển số: 51M6 – 6490 là của cô ruột tên Trương Như Huyền, sinh năm 1977, Nơi cư trú:133 Bình Thới, phường 11, quận 11 mua lại của anh Huỳnh Phát vào tháng 01/2014 để sử dụng. Tháng 10/2019 chị Huyền đưa xe cho Pha mượn để đi làm hàng ngày.

- 01 điện thoại hiệu Iphone 6S, Imei: 353311079606012 là tài sản của Trương Thị Yến Pha.

- 01 điện thoại hiệu Nokia 1202, Imei: 353198/05/268270/1 là tài sản của Ngô Trần V.

- 01 quần dài bằng vải Jean màu đen, cỡ 28, nhãn hiệu Dsqbread; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, có chữ Arizona ở phía ngoài ngực áo – bên trái; 01 áo khoác dài tay bằng vải màu tím, có chữ Giorgio Armani ở phía ngoài ngực áo – bên trái là quần áo V mặc khi thực hiện hành vi trộm.

- 01 mũ bảo hiểm màu đen, ở phía sau – bên ngoài có chữ Non.Son (V đội khi gây án).

- 01 chìa khóa xe do V nhờ thợ sửa khóa làm để sử dụng cho chiếc xe trộm được.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng theo Phiếu nhập số 25/PNK ngày 05/02/2020.

Tại bản cáo trạng số 54/CTr-VKS ngày 20/3/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Ngô Trần V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử - Xử phạt bị cáo Ngô Trần V từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 04 năm.

- Trả lại cho bà Trương Như Huyền chiếc xe gắn máy hiệu Attila, biển số: 51M6-6490, số máy: VMM9BED 033614, số khung: RLGH125GD7D 033614. Trả lại cho ông Nguyễn Văn Thạch chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số: 43G1-281.09, số máy: G3D4E460215, số khung: RLCUG0610HY439714.

- Trả lại cho bà Trương Thị Yến Pha 01 điện thoại hiệu Iphone 6S, Imei:

353311079606012. Trả lại cho bị cáo Vinh 01 điện thoại hiệu Nokia 1202, Imei:

353198/05/268270/1.

- Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài bằng vải Jean màu đen, cỡ 28, nhãn hiệu Dsqbread; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, có chữ Arizona ở phía ngoài ngực áo – bên trái; 01 áo khoác dài tay bằng vải màu tím, có chữ Giorgio Armani ở phía ngoài ngực áo – bên trái là quần áo Vinh, 01 mũ bảo hiểm màu đen, ở phía sau – bên ngoài có chữ Non.Son (Vinh đội khi gây án), 01 chìa khóa .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì bị cáo Ngô Trần V đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng bị cáo Ngô Trần V phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của bị hại, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Tài sản bị cáo trộm cắp là 01 chiếc xe gắn máy được định giá là 31.500.000 đồng nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có cơ sở, do đó cần phải xử lý nghiêm theo qui định của pháp luật.

[4] Đối với bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tội lỗi của bị cáo nhưng xét thấy gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, bản thân bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong thời gian tại ngoại không phạm thêm tội mới, chấp hành nghiêm chỉnh giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng, có nơi cư trú rõ ràng, tài sản trộm cắp đã được thu hồi, cho nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị cáo Ngô Trần V hưởng mức án có thời gian thử thách lâu dài và thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Việt Nam đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên toà hôm nay, bị hại là ông Nguyễn Văn Th vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện Th yêu cầu xin nhận lại chiếc xe bị trộm cắp. Hội đồng xét xử xét thấy chiếc xe trên của ông Nguyễn Văn Th, lấy lời khai ông Thanh cho biết đã giao chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số: 43G1-281.09 cho ông Thạch quản lý xử dụng và đồng ý giao chiếc xe trên cho ông Thạch tiếp tục xử dụng, bị hại có đơn yêu cầu nhận lại chiếc xe trên nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter cho ông Nguyễn Văn Th .

Đối với chiếc xe gắn máy hiệu chiếc xe gắn máy hiệu Attila, biển số: 51M6-6490, số máy: VMM9BED 033614, số khung: RLGH125GD7D 033614 thu giữ của bà Trương Thị Yến P qua xác minh do bà Trương Như H mua lại của ông Huỳnh P bằng giấy tay sau đó cho bà Pha mượn làm phương tiện đi lại, nay bà H có đơn yêu cầu xin nhận lại chiếc xe trên nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe gắn máy trên cho bà Huyền.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc điện thoại hiệu Iphone 6S, Imei: 353311079606012 của bà Pha và chiếc điện thoại hiệu Nokia 1202, Imei: 353198/05/268270/1 của bị cáo Vinh đây là tài sản riêng của bà Pha và bị cáo Vinh không liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bà Trương Thị Yến Pha và bị cáo V.

- Đối với 01 quần dài bằng vải Jean màu đen, cỡ 28, nhãn hiệu Dsqbread:

01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, có chữ Arizona ở phía ngoài ngực áo – bên trái; 01 áo khoác dài tay bằng vải màu tím, có chữ Giorgio Armani ở phía ngoài ngực áo – bên trái là quần áo Vinh, 01 mũ bảo hiểm màu đen, ở phía sau – bên ngoài có chữ Non.Son 01 chìa khóa bị cáo dùng để khi gây án không còn giá trị xử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Ngô Trần V phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

Xử phạt bị cáo Ngô Trần V 01(một) năm 06(sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03(ba) năm. Tính kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bà Trương Như H chiếc xe gắn máy hiệu Attila, biển số: 51M6-6490, số máy: VMM9BED 033614, số khung: RLGH125GD7D 033614.

- Trả lại cho cho ông Nguyễn Văn Th chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, biển số: 43G1-281.09, số máy: G3D4E460215, số khung: RLCUG0610HY439714.

- Trả lại cho bà Trương Thị Yến P 01 điện thoại hiệu Iphone 6S, Imei: 353311079606012.

- Trả lại cho bị cá 01 điện thoại hiệu Nokia 1202, Imei: 353198/05/268270/1.

- Tịch thu tiêu hủy 01 quần dài bằng vải Jean màu đen, cỡ 28, nhãn hiệu Dsqbread; 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, có chữ Arizona ở phía ngoài ngực áo – bên trái; 01 áo khoác dài tay bằng vải màu tím, có chữ Giorgio Armani ở phía ngoài ngực áo – bên trái là quần áo Vinh, 01 mũ bảo hiểm màu đen, ở phía sau – bên ngoài có chữ Non.Son, 01 chìa khóa .

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 25/PNK ngày 05/02/2020 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về