Bản án 65/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

A ÁN NHÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Minh T, sinh ngày 04/6/1988 tại tổ dân phố NT, thị trấn TM, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: tổ dân phố NT, thị trấn TM, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: lớp 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Xuân HN (đã chết) và bà Bùi Thị Đ; vợ con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: ngày 02/01/2017 bị cáo bị cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đơn Dương xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và chưa chấp hành quyết định xử phạt. Bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 22/8/2019 cho đến nay (có mặt).

Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Ngọc A, sinh năm: 1998; địa chỉ: 17 thôn LN, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Quốc B, sinh năm: 1995; địa chỉ: 123 thôn LN, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

3. Anh Lê Văn Tuấn H, sinh năm: 1998; địa chỉ: 73 thôn LT, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

4. Anh Nguyễn Ngọc V, sinh năm: 1999; địa chỉ: 52 thôn LT, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

5. Anh Vũ An D, sinh năm: 1999; địa chỉ: thôn LN, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Bùi Thị Đ, sinh năm: 1962; địa chỉ: Tổ dân phố NT, thị trấn TM, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (có mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Viết Nhật P, sinh năm: 1993; địa chỉ: thôn LT, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

2. Anh Trần Nhật Q, sinh năm: 1994; địa chỉ: thôn LT, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Trần Duy N, sinh năm: 1999; địa chỉ: 27 thôn LT, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

4. Anh Nguyễn Trọng M, sinh năm: 1999; địa chỉ: 37 thôn KTM, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

5. Ông Nguyễn D, sinh năm: 1971; địa chỉ: 37 thôn KTM, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

6. Anh Nguyễn Lương Anh K, sinh năm 1997; địa chỉ: thôn KTM, xã TT, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 00 phút ngày 26/01/2019, khi bị cáo đang nhậu cùng Hoàng Minh O và Nguyễn Đình Bảo L tại thôn Suối Thông C2, xã TT, huyện Đơn Dương (nhà của L) thì có nghe vụ đánh nhau tại thôn KTM, xã TT. Lúc này O đã điều khiển xe mô tô chở bị cáo đi vào thôn KTM. Khi đến thôn KTM thì thấy có một số thanh niên đang ở ngoài đường trước nhà nhà số 37 của ông Nguyễn D. Cho rằng các nhóm thanh niên đang muốn đánh nhau nên bị cáo đã giật lấy một con dao của một thanh nhiên không rõ tên tuổi trước nhà ông D rồi dùng dao đập phá các xe mô tô làm thiệt hại các tài sản cụ thể:

Hư hỏng ốp đèn trước và mặt nạ đồng hồ xe mô tô hiệu SH Mode biển kiểm soát 49F1-187.68 của anh Nguyễn Quốc B.

Hư hỏng phần áo chắn gió xe mô tô hiệu Wave RSX biển kiểm soát 49F1- 164.87 của anh Lê Văn Tuấn H.

Hư hỏng mặt nạ đồng hồ xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 49F1-19801 của anh Nguyễn Ngọc A;

Hư hỏng ốp đèn trước và mặt nạ đồng hồ xe mô tô hiệu Air Blade biển kiểm soát 49F1-336.49 của anh Nguyễn Ngọc V.

Hư hỏng mặt nạ đồng hồ xe mô tô hiệu Wave RSX biển kiểm soát 49F1- 104.50 của anh Vũ An D.

Ti bản kết luận định giá tài sản số 06/2019/KL/HĐĐGTS ngày 28/01/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đơn Dương kết luận 05 xe mô tô bị cáo làm hư hỏng có tổng giá trị giá thiệt hại là 3.852.100 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 56/CT-VKS-ĐD ngày 07/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương đã truy tố bị cáo Đỗ Minh T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự 2015.

Quá trình điều tra, các bị hại Nguyễn Ngọc A, Nguyễn Quốc B, Lê Văn Tuấn H, Nguyễn Ngọc V, Vũ An D đều khai khoảng 22 giờ 30 ngày 26/01/2019, khi đang nhậu cùng nhau và một số người khác tại nhà ông D thì thấy bị cáo cầm một con dao dài khoảng 60cm đi vào, do lo sợ nên vào nhà khóa cửa hoặc đi trốn phía sau nhà. Một lúc sau đi ra thì phát hiện các xe máy của mình bị bị cáo đập phá làm hư hỏng. Hiện tại, các anh đã được bà Đ là mẹ của bị cáo bồi thường, khắc phục hậu quả nên không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo. Riêng anh A không nhận tiền bồi thường, đã tự sửa chữa xe và cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Về trách nhiệm hình sự, các bị hại đều có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Đỗ Minh T mức án từ 06 đến 09 tháng tù. Bị cáo không thắc mắc, khiếu nại bản cáo trạng, khai nhận do không kìm chế bản thân đã vô cớ cầm dao đập phá làm hư hỏng 05 xe mô tô của các bị hai tại nhà của ông Nguyễn D có tổng giá trị là 3.852.100 đồng như cáo trạng nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Do nghe có vụ đánh nhau tại thôn KTM, xã TT nên O đã đã điều khiển xe mô tô chở bị cáo đến nhà số 37 thôn KTM, xã TT gây sự rồi vô cớ dùng dao đập phá làm hư hỏng 05 xe mô tô của các bị hại có tổng giá trị là 3.852.100 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Minh T phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Với bản tính hung hăng, tuy không có mâu thuẫn gì với ông Nguyễn D và những người đang ở trong nhà ông D, nhưng bị cáo đã vô cớ sử dụng 01 con dao đập phá các xe mô tô tại nhà của ông D của các bị hại. Bị cáo biết rõ việc dùng dao đập vào xe các xe mô tô sẽ làm cho xe bị hư hỏng phần nào giảm sút giá trị sử dụng nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi của mình làm hư hỏng tài sản có tổng giá trị là 3.852.100 đồng. Đây là tài sản hợp pháp của các bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Về nhân thân, ngày 20/12/16 bị công an huyện Đơn Dương ra quyết định xử phạt 750.000 và ngày 02/01/2017 bị công an huyện Đơn Dương ra quyết định xử phạt 1.000.000đ về cùng hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên bị cáo chỉ mới nộp phạt số tiền 750.000 đồng. Số tiền phạt 1.000.000đ bị cáo chưa chấp hành. Chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc và nhất thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người biết sống và tuân thủ pháp luật đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự làm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là hoàn toàn phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đơn Dương tạm giữ và trả lại các xe mô tô biển kiểm soát 49F1- 187.68, 49F1-164.87, 49F1-198.01, 49F1-336.49, 49F1-104.50 cho các chủ sở hữu. Sau khi nhận lại các tài sản không ai có yêu cầu gì nên không đề cập đến.

Đi với con dao bị cáo dùng để đập phá tài sản cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đơn Dương không thu giữ được nên không đề cập đến.

[6] Về trách nhiệm dân sự: gia đình bị cáo đã bồi thường khắc phục sửa chữa tài sản bị hư hỏng cho các bị hại với số tiền 8.500.000 đồng. Quá trình điều tra các bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo. Tại phiên tòa hôm nay các bị hại vắng mặt, nếu sau này có tranh chấp phát sinh đối với bị cáo sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Minh T phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 178; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đỗ Minh T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 22 tháng 8 năm 2019).

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Đỗ Minh T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo, riêng các bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về