Bản án 65/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 19/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2019/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2019, thông báo thay đổi thời gian, địa điểm xét xử số 06/TB-TA ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Xuân D, sinh năm 1985 tại Chí Linh, Hải Dương; nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã L, thành phố C, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa(học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân S và con bà Nguyễn Thị S; tiền sự: không; tiền án: 01 tiền án. Tại bản án số 82/2015/HSST ngày 30/12/2015 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh H(nay là Tòa án thành phố C, tỉnh H) xử phạt D 36 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Tại bản án số 24/2016/HSPT ngày 10/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh H không chấp nhận kháng cáo của Trần Xuân D, D phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 01/3/2018, D chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm.

Nhân thân:

- Tại bản án số 10/2004/HSST ngày 29/4/20004 của Tòa án nhân dân huyện C(nay là Tòa án nhân dân thành phố C), tỉnh H xử phạt D 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

- Tại bản án số 30/2009/HSST ngày 25/6/2009 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xử phạt D 8 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc số 6439 ngày 29/12/2005 của Chủ tịch UBND tỉnh H, thời hạn là 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản và hủy hoại tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/3/2019, đến ngày 21/3/2019 chuyển tạm giam tại Trại giam K- Công an tỉnh H, có mặt.

- Những người làm chứng:

1. Anh Hoàng Ngọc T, sinh năm 1983

Địa chỉ: Khu dân cư T 3, phường S, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

2. Bà Phạm Thị Kim O, sinh năm 1963

Địa chỉ: Khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 5 giờ 30 phút sáng ngày 20/3/2019, Trần Xuân D là người nghiện ma túy, đi xe ôm từ nhà ở thôn A, xã L, thành phố C, tỉnh H đến khu vực Cầu T thuộc phường T, thành phố C, tỉnh H để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, D gặp một người đàn ông không quen biết, mua 20 gói ma túy với giá 800.000đồng. Sau khi mua được ma túy, D cất giấu ở trong túi ngoài bên dưới áo khoác và bắt xe ôm về khu vực đường T thuộc khu dân cư T 2, phường S, thành phố C tìm chỗ sử dụng. D khai tại đây, D đã bỏ 02 gói ma túy ra sử dụng, sau đó D cất số ma túy còn lại vào túi ngoài bên dưới áo khoác D đang mặc và bắt xe ôm về nhà. Đến khoảng 7 giờ cùng ngày, D đang đi bộ trên đường T thì bị lực lượng Công an thành phố C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ: Tại túi ngoài bên dưới áo khoác D đang mặc 01 túi nilon màu trắng, kích thước (9,5x4)cm, bên trong chứa 18 gói giấy bạc màu trắng đều có kích thước (1,8x1)cm, bên trong các gói giấy bạc đều chứa chất bột dạng cục màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 156/KLGĐ-PC09 ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Phòng k - Công an tỉnh H kết luận: Chất bột(dạng cục) mầu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Trần Xuân D, gửi đến giám định tổng khối lượng là: 0,994g là ma túy, loại Heroin.

Tại Cáo trạng số 62/CT-VKSCL ngày 29 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H đã truy tố Trần Xuân D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản2 Điều 106; khoản 2 Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo 22 tháng đến 25 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/3/2019. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 156/KLGĐ-PC09 của Phòng k Công an tỉnh H bên trong chứa 0,933gam ma túy loại Heroin là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Về án phí: Bị cáo D phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, VKSND thành phố C, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Trần Xuân D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 7 giờ ngày 20 tháng 3 năm 2019, tại khu vực đường T thuộc khu dân cư T 2, phường S, thành phố C, tỉnh H, Trần Xuân D có hành vi cất giấu trái phép 0,994 gam ma túy, loại Heroin để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Công an thành phố C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng nên đủ căn cứ xác định Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng nhằm thỏa mãn cơn nghiện mà cất giữ ma túy bất hợp pháp và làm mất trật tự an toàn xã hội. Khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng xem xét tới các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ sau: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo D thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi với hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng bằng khen do có thành tích trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội tại bản án này, bị cáo D đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án trước, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Về nhân thân: Bị cáo D có nhân thân xấu, nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, phải đi chấp hành án tại Trại giam nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, HĐXX cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để rèn luyện bị cáo trở thành người có ích, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố C đã thu giữ số ma túy hoàn lại sau giám định là 0,933 gam ma túy loại Heroin được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 156/KLGĐ-PC09 của Phòng k Công an tỉnh H đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho hủy bỏ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[6] Trong vụ án, D khai mua ma túy của người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ, qua điều tra chưa xác định được người đàn ông này là ai, cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Đối với hành vi D tự khai đã sử dụng 02 gói ma túy chưa có căn cứ xác định hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Trần Xuân D 28 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 20-3-2019.

Hình phạt bổ sung: Không đặt ra giải quyết.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

Tịch thu và tiêu hủy 0,933gam ma túy loại Heroin là mẫu vật hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 156/KLGĐ-PC09 được niêm phong bởi 3 dấu giáp lai của Phòng k Công an tỉnh H và 3 chữ ký niêm phong mẫu.

(Tình trạng cụ thể của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan CSĐT- Công an thành phố C và Chi cục THADS thành phố C ngày 30/5/2019).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của BLTTHS 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Xuân D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 19/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về