Bản án 65/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2019/TLST-HS ngày 12/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HS ngày 04/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Y; Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1969, tại Điện Biên. Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: Đội T, xã Noong L, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn A (Đã chết) con bà: Lò Thị D - SN 1937; Vợ, con: Năm 1995 chung sống như vợ chồng với Lò Thị N - SN 1975, không có đăng ký kết hôn; Vợ là Lò Thị Th - 1981 và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2015; gia đình bị cáo có 05 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 3; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/8/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Điện B, tỉnh Điện B xử phạt 36 tháng tù đến ngày 30/01/2010 chấp hành xong hình phạt tù, hiện đã được xóa án tích; bị tạm giữ tạm giam từ ngày 28/12/2018 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.

2. Người có nghĩa vụ liên quan:

- Cà Văn N - SN 2000 và Lò Văn Th - SN 1996

Đều trú tại: Đội X, xã Noong L, huyện Đ B, vắng không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 28/12/2018 Lò Văn Yê đi bộ từ nhà ra đoạn đường chính thuộc Đội X, xã Noong L, huyện Đ B để tìm mua ma túy về để sử dụng và bán lẻ. Tại đây Y đã gặp và mua được 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá 100.000 đồng và 01 viên Methamphetamine được gói bằng nilon màu trắng với giá 30.000 đồng của một người phụ nữ dân tộc Khơ Mú khoảng 35 tuổi không biết tên và địa chỉ. Sau khi mua được ma túy, Y cất giấu vào túi áo bên trái đang mặc rồi đi về nhà. Khoảng 09 giờ cùng ngày khi Y đang ở nhà thì Cà Văn N sinh năm 2000 và Lò Văn Th sinh năm 1996 cùng trú tại đội X, xã N L, huyện Đ B vào hỏi mua 50.000 đồng ma túy (50.000 đồng là tiền chung của Th và N góp vào mua, mỗi người 25.000 đồng). Khi Y vừa nhận 50.000 đồng từ N đưa và lấy gói Heroine trong túi áo bên trái để lên bàn định dùng tay cấu chia nhỏ đưa cho N thì bị tổ công tác Công an huyện Đ B vào nhà bắt quả tang, thu giữ trên mặt bàn uống nước 1 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng cùng số tiền 50.000 đồng, thu giữ trong túi áo bên trái Y đang mặc 01viên Methamphetamine được gói bằng nilon màu trắng.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 15 giờ 00 phút ngày 28/12/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện B đã xác định: Số cục bột màu trắng thu giữ nghi heroine có khối lượng 0,35 gam, trích mẫu gửi giám định 0,09 gam; số viên nén màu hồng nghi ma túy túy tổng hợp có khối lượng 0,1 gam, gửi toàn bộ giám định.

Tại Bản kết luận giám định số: 177/GĐ-PC09 ngày 06/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là heroine. Mẫu viên nén màu hồng gửi giám định là Methamphetamine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do cần có ma túy để sử dụng cho bản thân và bán lẻ kiếm lời nên bị cáo đã đi mua ma túy và bị bắt quả tang khi đang bán cho N và Th 50.000 Heroine, thu giữ 01 gói heroine và 01 viên Methamphetamine. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Tại bản Cáo trạng số: 69/CT-VKSĐB ngày 11/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo về tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại Khoản 1 Điều 251/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Khoản 1 Điều 251/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS: Xử phạt bị cáo từ 30 đến 33 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251/BLHS.

Về vật chứng: Căn cứ Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,35 gam heroine, đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu và 01 viên Methamphetamine có khối lượng 0,1 gam đã gửi toàn bộ giám định không hoàn lại mẫu, tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, đề nghị HĐXX miễn án phí phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 28/12/2018 tại nơi ở của mình, bị cáo Lò Văn Y đã bán 50.000 đồng Heroine cho N và Th song vừa nhận tiền, chưa kịp đưa ma túy cho N và Th thì bị bắt, thu giữ 0,35 gam Heroine và 0,1 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 09 - 10); Kết luận giám định (BL 35); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung , bản tự khai của bị cáo và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251/BLHS năm 2015.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã cất giấu trái phép 0,35 gam Heroine và 0,1 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời, tổng khối lượng 2 chất ma túy là 0,45 gam. Bị cáo đã bán 50.000 đồng Heroine cho N và Th song chưa kịp đưa ma túy cho N và Th thì bị bắt. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc khoản 1 Điều 251/BLHS với mức hình phạt từ 02 đến 07 năm tù [4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Lò Văn Y sinh ra và lớn lên tại xã N L, huyện Điện B, không được đi học. Năm 1995 sinh sống như vợ chồng với Lò Thị N sinh năm 1975 và có 03 người con. Năm 2007 bị Tòa án nhân dân huyện Đ B xử phạt 36 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Năm 2010 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương sinh sống. Năm 2013 kết hôn với Lò Thị Th và có 02 người con. Hiện bị cáo đã được xóa án tích song là người có nhân thân xấu. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. HĐXX xét xử sẽ cân nhắc hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ rất nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải nghiêm khắc lần nữa cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người phụ nữ dân tộc Khơ Mú khoảng 35 tuổi không biết tên và địa chỉ tại đội X, xã N L, huyện Điện Biên. Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.

Đối với Cà Văn N và Lò Văn Th là người đã mua ma túy của bị cáo, xét thấy hành vi của N và Th không cấu thành tội phạm, HĐXX không đặt vấn đề xử lý trong vụ án.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 251/BLHS năm 2015. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn thuộc hộ nghèo, bị cáo là người sử dụng ma túy nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng và làm thuê thu nhập không ổn định nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,35 gam heroine, đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu và 01 viên Methamphetamine có khối lượng 0,1 gam đã gửi toàn bộ giám định không hoàn lại mẫu, tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 251/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Y phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 28/12/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm b, c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, b Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,35 gam heroine, đã trích 0,09 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu và 01 viên Methamphetamine có khối lượng 0,1 gam đã gửi toàn bộ giám định không hoàn lại mẫu, tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng.

(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 14 giờ 30 phút ngày 22 tháng 4 năm 2019)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 17/5/2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 17/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về