Bản án 65/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2019/TLST-HS, ngày 03 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

u Thị T, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1949, tại Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 3/10; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Viết D (đã chết) và bà Chu Thị C (đã chết); chồng: Lương Văn T (đã chết); con: Có 04 con, lớn sinh năm 1969, nhỏ sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử phạt; bị bắt tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 11/12/2018 đến ngày 10/01/2019 được thay thế, áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị L - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Bị hại: Bà Lăng Thị L, sinh năm 1971.

Đa chỉ: Thôn T, xã T1, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1, Bà Hoàng Thị H (S), sinh năm 1959.

Đa chỉ: Số *, ngõ *, đường B, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

2, Bà Lại Thị L, sinh năm 1967.

Đa chỉ: Ngõ *, đường B, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, vắng mặt.

3, Chị Lương Thị H, sinh năm 1993.

Đa chỉ: Thôn T, xã T1, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Lăng Văn T, có mặt.

2. Lăng Thị H, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 09/10/2018 Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn tiếp nhận tố giác của bà Lăng Thị L, sinh năm 1971, trú tại: Thôn T, xã T1, huyện C, tỉnh Lạng Sơn về việc vào khoảng thời gian từ tháng 3/2015 đến tháng 6/2016, bà Lăng Thị L có đưa cho bà Lưu Thị T, sinh năm 1949, trú tại thôn C, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn số tiền 115.000.000 đồng (một trăm mười lăm triệu đồng) để xin việc cho con gái bà Lăng Thị L là Lương Thị H. Bà T hứa nếu không xin được việc sẽ trả lại cho bà Lăng Thị L toàn bộ số tiền, tuy nhiên đến nay bà T không xin được việc cho con gái bà Lăng Thị L và chưa hoàn trả lại số tiền như đã cam kết.

Sau khi tiếp nhận tin báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã tiến hành kiểm tra, xác minh và có đủ căn cứ xác định hành vi của bà Lưu Thị T có dấu hiệu của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự. Ngày 06/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã khởi tố vụ án, bị can, bắt bị can để tạm giam đối với Lưu Thị T để điều tra vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng năm 2015, bà Lăng Thị L có tâm sự với Lưu Thị T về việc có con gái là Lương Thị H, sinh năm 1993 đã học xong trường Cao đẳng y nhưng chưa xin được việc làm. Khi nghe bà Lăng Thị L nói vậy, Lưu Thị T nhớ ra bà Hoàng Thị H (tên gọi khác: S) là người quen của T có quen biết một người đang làm ở Sở y tế, tỉnh Lạng Sơn thông qua mối quan hệ này có thể xin được việc cho con gái bà Lăng Thị L. Sau đó, T đến nhà bà H ở ngõ * đường B, phường Đ, thành Phố L, T kể với bà H việc có một người cháu trong quê học xong trường y nhưng chưa xin được việc làm, nên T nhờ bà H dẫn sang nhà người hàng xóm đang công tác ở Sở y tế, đồng thời nhờ bà H tác động giúp, bà H đồng ý dẫn T sang nhà bà Lại Thị L, sinh năm 1967 công tác tại Sở y tế Lạng Sơn. Tại nhà bà Lại Thị L, qua nói chuyện T đặt vấn đề để xin đi làm (vào biên chế) thì mất khoảng bao nhiêu tiền, thì bà Lại Thị L trả lời để vào biên chế thì hết khoảng 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng). Sau đó T về báo lại với bà Lăng Thị L, bà Lăng Thị L đồng ý, nhưng hiện nay bà Lăng Thị L chưa có đủ tiền nên đề nghị với bà T sẽ giao tiền thành nhiều lần, bà T nói lại với bà Lại Thị L, bà Lại Thị L bảo dồn tiền khi nào đủ sẽ được đi làm. Do đó trong khoảng thời gian từ tháng 3/2015 đến tháng 6/2016 bà Lăng Thị L đã đưa tiền cho bà T với tổng số tiền là 115.000.000 đồng (một trăm mười lăm triệu đồng).

Cụ thể diễn biến như sau:

Ngày 04/3/2015, tại nhà mẹ đẻ của bà Lăng Thị L là bà Chu Thị P ở thôn T, xã T1, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, bà Lăng Thị L có đưa cho T 30.000.000 (ba mươi triệu đồng) giữa hai bên có giấy giao nhận tiền. Sau khi nhận số tiền trên T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và dùng số tiền đó để làm ăn nên đã không đưa số tiền này cho bà Lại Thị L.

Ngày 06/9/2015, T nhận của bà Lăng Thị L 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) tại nhà em họ bà Lăng Thị L là Lăng Thị H ở đường T, phường L, thành phố L, khi giao nhận tiền có viết giấy tờ. Sau khi nhận tiền T giữ lại toàn bộ số tiền để làm ăn và tự viết 01 (một) giấy nhận tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) giữa người giao là Lưu Thị T và người nhận là Hoàng Thị H để cho bà Lăng Thị L tin tưởng xem là T đã ứng tiền trước để lo việc cho con gái bà Lăng Thị L.

Đến khoảng tháng 10/2015 bà Lăng Thị L liên lạc với T bảo là con gái chuẩn bị thi công chức, T bảo bà Lăng Thị L chuẩn bị 10.000.000đ (mười triệu đồng) để lo cho con gái bà Lăng Thị L đi thi, bà Lăng Thị L trả lời hiện chưa có tiền nên nhờ T ứng ra trước. Sau đó khoảng một tuần bà Lăng Thị L có bảo con gái là Lương Thị H mang trả cho Tần 5.000.000đ (năm triệu đồng), khi giao nhận tiền không có giấy tờ, còn 5.000.000đ (năm triệu đồng) bà Lăng Thị L sẽ trả sau khi con gái được đi làm. Số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) bà T đã sử dụng cá nhân hết.

Đến tháng 11/2015 con gái bà Lăng Thị L đi thi nhưng không đỗ nên bà Lăng Thị L đã thắc mắc với T, T bảo sẽ giúp con gái bà Lăng Thị L đỗ lần này mà không cần thi. Đến gần tết nguyên đán 2016, do không có tiền chuẩn bị tết nên T đã bảo với bà Lăng Thị L là do T đã ứng tiền trước nên bảo bà Lăng Thị L đưa cho T 10.000.000đ (mười triệu đồng) tại nhà bà Lăng Thị L, khi giao nhận tiền không có giấy tờ. Số tiền này T đã dùng vào việc cá nhân hết.

Do thời gian đã lâu mà con gái vẫn chưa được đi làm nên bà Lăng Thị L hỏi T nhiều lần thì T đã liên lạc hỏi bà Lại Thị L, thì bà Lại Thị L nói có thể giúp cho đi làm hợp đồng tại trạm y tế Đ. Nghe bà Lại Thị Lý nói như vậy T liên lạc bảo bà Lăng Thị L chuẩn bị 20.000.000 (hai mươi triệu đồng) để làm hồ sơ đi làm. Ngày 27/5/2016 T nhận của bà Lăng Thị L số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) tại địa chỉ * đường T, phường Đ, thành phố L. Sau đó T đưa số tiền này cho bà Lại Thị L để giúp con gái bà Lăng Thị L được đi làm hợp đồng. Do bà Lăng Thị L không đồng ý cho con gái đi làm hợp đồng nên T đã lấy lại số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu đồng) đã đưa cho bà Lại Thị L, khi trả tiền giữa bà Lại Thị L và T có viết 01 (một) giấy trả tiền xin hợp đồng, số tiền này Lưu Thị T đã sử dụng hết vào việc cá nhân hết.

Biết Lưu Thị T cầm toàn bộ số tiền 115.000.000đ (một trăm mười năm triệu đồng) nhưng không xin được việc làm cho con gái mình nên ngày 18/6/2016, bà Lăng Thị L cùng mẹ đẻ là bà Chu Thị P đến nhà Lưu Thị T yêu cầu T trả tiền. Do không có tiền nên T đã viết 01 (một) giấy cam kết hoàn trả lại toàn bộ số tiền, nếu đến ngày 30/6/2016 con gái bà Lăng Thị L không được đi làm.

Sau khi cam kết Lương Thị H vẫn không được đi làm nên ngày 07/7/2018 bà Lăng Thị L cùng người nhà đến nhà T yêu cầu trả tiền thì T đã trả bà Lăng Thị L 10.000.000đ (mười triệu đồng). Đồng thời T còn viết một giấy cam kết trả nợ với nội dung mỗi tháng sẽ trả cho bà Lăng Thị L 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), trong vòng 05 (năm) tháng cho đến khi hết nợ. Ngày 08/7/2018 T trả được cho bà Lăng Thị L thêm 1.050.000đ (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng), từ đó đến nay chưa trả được cho bà Lăng Thị L thêm lần nào. Hiện nay, Lưu Thị T còn nợ bà Lăng Thị L 103.950.000đ.

Đồ vật, tài liệu thu giữ gồm: 01(một) giấy nhận tiền ngày 04/3/2015; 01(một) giấy nhận tiền ngày 06/9/2015; 01(một) giấy nhận tiền ngày 27/5/2016; 01(một) giấy nhận cam kết trả tiền ngày 18/6/2016; 01(một) giấy nhận cam kết trả nợ ngày 07/7/2018. Toàn bộ số tài liệu nêu trên được lưu giữ kèm theo hồ sơ vụ án.

Ngày 06/11/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cao Lộc trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn giám định chữ ký, chữ viết trên giấy nhận tiền và giấy cam kết trả tiền có chữ ký và chữ viết của Lưu Thị T (do bà Lăng Thị L cung cấp) với chữ ký và chữ viết trên những văn bản có bút tích của Lưu Thị T (do Cơ quan điều tra thu thập, dùng làm mẫu so sánh). Tại Bản kết luận giám định số 232/KLĐT-PC09 ngày 16/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chữ ký, chữ viết họ tên của Lưu Thị T trên các tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký, viết ra.

Về phần dân sự: Người bị hại Lăng Thị L yêu cầu bị cáo Lưu Thị T hoàn trả toàn bộ số tiền là 103.950.000đ (một trăm lẻ ba triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Bản Cáo trạng số 60/CT-VKS, ngày 02/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lưu Thị T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm c, khoản 2, Điều 175 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi pham tội của mình như tại cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố; bị hại bà Lăng Thị L trình bày như bản cáo trạng đã nêu về phần hình phạt yêu cầu xét xử bị cáo Lưu Thị T theo quy định của pháp luật, về phần dân sự yêu cầu bị cảo phải trả lại số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng); bị cáo Lưu Thị T đồng ý trả lại cho bị hại Lăng Thị L 100.000.000đ (một trăm triệu đồng); người bào chữa cho bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo và miễn tiền án phí dân sự cho bị cáo.

Đại diện Viên kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lưu Thị T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 175; điểm o, s, x khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Thị T từ 02 năm đến 03 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại, bị cáo phải trả lại cho bị hại số tiền là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình. Vào khoảng thời gian từ tháng 3/2015 đến tháng 6/2016, tại nhiều địa điểm khác nhau, bà Lăng Thị L đã 05 (năm) lần đưa tiền cho bị cáo Lưu Thị T với tổng số tiền là 115.000.000 đồng (một trăm mười lăm triệu đồng) để xin việc cho con gái bà Lăng Thị L là Lương Thị H. Sau khi nhận được tiền, bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt và đã sử dụng bất hợp pháp số tiền đó, đến nay mới trả được 11.050.000 đồng (mười một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) cho người bị hại, số tiền còn lại là 103.950.000 đồng, không còn khả năng trả lại như đã cam kết. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lưu Thị T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

[2] Cáo trạng số 60/CT-VKS, ngày 02/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lưu Thị T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra, truy tố quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Đây là vụ án Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hậu quả xẩy ra là nghiêm trọng, đã tạo dư luận xấu gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục bị cáo và răn đe làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự.

[5] Để cá thể hoá hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt; về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo được Chủ tịch tước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì; Bị cáo đã trên 70 tuổi nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm o, s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

[6] Từ những phân tích trên khi lượng hình cần quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tính giáo dục và có tính răn đe, phòng ngừa chung. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, tạo dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, bị cáo cũng chưa thật sự ăn năn hối cải và chưa trả lại tiền cho bị hại nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe làm gương cho những người khác có ý định thực hiện hành vi phạm tội tương tự. Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng với quy định của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận bị cáo phải trả lại cho bị hại số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) là hoàn toàn tự nguyện và đúng với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại. Bị cáo Lưu Thị T phải trả lại cho bị hại bà Lăng Thị L số tiền là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng).

[9] Đối với bà Hoàng Thị H (S), được Lưu Thị T nhờ đưa sang nhà bà Lại Thị L để xin việc cho Lương Thị H, nội dung cụ thể bà H không nắm được. Đối với tờ giấy nhận hộ 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) giữa T và bà H, bà H khẳng định không được nhận số tiền này và chữ ký trên giấy không phải của bà H. Căn cứ lời khai của Lưu Thị T về nguồn gốc tờ giấy là do bị cáo Lưu Thị T viết đã hủy bản gốc, do vậy không có cơ sở để xử lý đối với Hoàng Thị H.

[10] Đối với bà Lại Thị L quen biết Lưu Thị T khi được bà H dẫn sang nhà bị cáo T có đặt vấn đề với bà Lại Thị L xin việc cho Lương Thị H, tuy nhiên bà Lại Thị L trả lời chỉ có thể giúp đi làm hợp đồng. Sau hôm đó, bị cáo T có sang nhà bà Lại Thị L vài lần đặt vấn đề nhưng bà Lại Thị L từ chối không giúp được. Đến khoảng tháng 5/2016, bà Lại Thị L biết trạm y tế Đ thiếu người nên bảo với T nếu cháu bà T đồng ý sẽ giúp đi làm hợp đồng. Sau đó T có hỏi bà Lại Thị L để xin đi làm hợp đồng hết bao nhiêu tiền, bà Lại Thị L bảo xin đi làm hợp đồng không mất tiền, sau khi xin được chỉ cần cảm ơn người giúp là được. Ngày 27/5/2016, Lưu Thị T đưa cho bà Lại Thị L số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) và bảo bà Lại Thị L cầm tiền để cảm ơn người ta, tuy nhiên đo Lương Thị H không đồng ý làm hợp đồng nên ngày 29/6/2016 bà Lại Thị L trả lại cho Lưu Thị T số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Sau khi trả lại tiền, bà Lại Thị L không còn gặp lại Lưu Thị T nữa. Do có mâu thuẫn lời khai về nội dung T đặt vấn đề với bà Lại Thị L, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất. Kết quả: Lưu Thị T khai Lại Thị L đặt vấn đề 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng) sẽ được đi làm chính thức, tuy nhiên bà Lại Thị L không thừa nhận điều này. Thực tế việc bà Lại Thị L được nhận 20.000.000 đồng với Lưu Thị T ngày 27/5/2016 và đã trả lại T toàn bộ số tiền đó vào ngày 29/6/2016 và bị cáo T cũng thừa nhận là đúng sự thật. Ngoài lời khai của bị cáo T ra do không có thêm tài liệu chứng cứ nào khác nên không có cơ sở để xử lý với bà Lại Thị L.

[11] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1, Điều 12; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về án phí dân sự: Bị cáo phải chịu 5.000.000đ tiền án phí dân sự theo giá ngạch. Bị cáo là người cao tuổi, bị cáo có đơn xin miễn nộp tiền án phí dân sự theo giá ngạch nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được miễn nộp tiền án phí dân sự theo giá ngạch.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, khoản 2 Điều 175; điểm o, s, x khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lưu Thị T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Xử phạt bị cáo Lưu Thị T 02 (hai) năm tù, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giam là 31 ngày, (từ ngày 11/12/2018 đến ngày 10/01/2019), bị cáo còn phải chấp hành hình phạt là 01 (một) năm 10 (mười) tháng 29 (hai mươi chín) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 589, 357 của Bộ luật dân sự Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại. Bị cáo Lưu Thị T phải trả cho bị hại Lăng Thị L số tiền là 100.000.000đ (một trăm triệu đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1, Điều 12; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lưu Thị T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Về án phí dân sự: Bị cáo Lưu Thị T được miễn nộp 5.000.000đ (năm triệu đồng) tiền án phí dân sự theo giá ngạch.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về