Bản án 65/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 65/2018/HS-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2018/TLST-HS, ngày 01 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Thị C, sinh ngày 30/12/1971

Nơi đăng ký NKTT: tổ 22, phường TD, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Xuân B và bà Dương Thị B, đều đã chết;. Gia đình có 7 chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; có chồng là Nguyễn Kim T, sinh năm 1970, có 02 chung, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án: không, tiền sự: Ngày 16/10/2017, Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản (nộp tiền ngày 28/11/2017); Nhân thân: Ngày 14/10/2004 Công an phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 100.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 28/12/2006: Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 200.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 25/7/2012 Công an thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Tại bản án số 14/2013/HSST ngày 30/1/2013 Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Đỗ Thị C được miễn chấp hành hình phạt tù theo Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù số 02 ngày 15/1/2014); Ngày 23/4/2018 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Lương khởi tố bị can về hành vi “trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2018 đến ngày 05/6/2018, được thay thế biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Lê Thị H, sinh năm 1971 - Vắng mặt.

Trú tại: Xóm QT, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Kim T, sinh năm 1970 - Có mặt.

Trú tại: tổ 22, phường TD, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Gia T (T), sinh năm 1988 - Vắng mặt.

Trú tại: Xóm QT, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 06/5/2018, Đỗ Thị C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe LEAD, biển kiểm soát 20B1-954.20 mang rau từ nhà mình đến khu vực chợ TĐ bán cho người phụ nữ tên Hà (không rõ lai lịch, địa chỉ). Sau khi bán xong, C rủ H cùng đi vào đền ông HB ở thị trấn TC, huyện ĐH để xem bói, Hà đồng ý. Khi cả hai đi đến quán tạp hóa của chị Lê Thị H (sinh năm 1971) tại xóm QT, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên thì C và H đứng lại vào quán để mua đường kính. C nói với chị H bán cho C 5 kg đường kính. H nói chị H bán cho H 7 kg đường kính. H đã thanh toán tiền 7 kg đường cho chị H. Lúc này, lợi dụng chị H không để ý, C đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. C liền lấy túi bóng đen ở ngoài cửa của cửa hàng tạp hóa, loại khoảng 10 kg, dùng tay lấy khoảng 05 túi bột canh Hải Châu loại 190gr, 02 gói mì chính AJINOMOTO loại 400gr, 11 chai dầu ăn Neptune loại 01 lít, 04 chai dầu ăn Meizan loại 01 lít cho vào túi bóng rồi để ở cửa quán tạp hóa. Theo C khai, C nói với H “mày xách hộ tao túi này với, tao mua trả tiền rồi”. H bảo “mua làm gì nhiều thế” thì C nói “tao mua có việc”. H để túi đường ở giá để hàng của xe mô tô H đi, sau đó để túi bóng C nhờ cầm hộ lên phía trên rồi nổ máy xe đi trước. Việc H đi trước, C không biết và cũng không bảo. Lúc này, chị H phát hiện bị mất tài sản nên đã giữ C lại báo công an xã NH đến lập biên bản sự việc.

Tại bản Kết luận định giá số 17/ĐGTSHS ngày 08/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đồng Hỷ, kết luận: 05 túi bột canh Hải Châu loại 190gr = 18.000 đồng; 02 gói mì chính AJINOMOTO loại 400gr = 53.000 đồng; 11 chai dầu ăn Neptune loại 01 lít = 451.000 đồng và 04 chai dầu ăn Meizan loại 01 lít = 128.000 đồng. Tổng trị giá = 650.000 đồng. 

Tại cơ quan điều tra, bị can Đỗ Thị C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị can phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận định giá , biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 05 túi bột canh Hải Châu loại 190gr; 02 gói mì chính AJINOMOTO loại 400gr; 11 chai dầu ăn Neptune loại 01 lít và 04 chai dầu ăn Meizan loại 01 lít. Hiện số vật chứng trên đã được thu giữ và trả lại cho chị Lê Thị H là chủ sở hữu quản lý, sử dụng.

+ 01 xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu HONDA, loại xe LEAD, biển kiểm soát 20B1-954.20 và 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Mobiistar, số IMEI352223025457187, bên trong có gắn 1 sim điện  thoại mạng di động Viettel có số sim 8984048008825075762 đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 56/VKSĐT-KT ngày 31/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Đỗ Thị C về tội "Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo xác định không có dự mưu từ trước mà khi đi cùng Hà vào quán mua bánh kẹo đi lễ thì bị cáo mới này sinh ý định trộm cắp tài sản. Bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng.

Tại phiên tòa hôm nay bị hại chị H vắng mặt tại phiên tòa, chị xác định phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và chị đã thỏa thuận bồi thường xong, chị không có ý kiến gì và có đơn đề nghị xin giảm hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh T khai: Chiếc xe mô tô BKS 20B1-954.20 mà vợ anh dùng để đi và đã có hành vi trộm cắp tài sản ngày 06/5/2018, anh T không biết việc vợ dùng xe đi trộm cắp tài sản. Chiếc xe trên là do anh đi làm tiết kiệm mà có được, nay anh đề nghị Tòa án trả lại cho anh chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đỗ Thị C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị C từ 9 đến 12 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Đã bồi thường xong, không xem xét giải quyết.

- Về vật chứng:

+ Trả lại anh Nguyễn Kim T 01 xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu HONDA, loại xe LEAD, biển kiểm soát 20B1-954.20.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Mobiistar.

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ đồng án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, trong phần lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên huyện Đồng Hỷ, trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ vụ án như: Biên bản sự việc, đặc điểm loại tài sản chiếm đoạt, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập trong quá trình điều tra. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 9 giờ ngày 06/5/2018, tại quán tạp hóa của chị Lê Thị H ở xóm QT, xã NH, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, Đỗ Thị C có hành vi trộm cắp 05 túi bột canh Hải Châu, 02 gói mì chính AJINOMOTO, 11 chai dầu ăn Neptune và 04 chai dầu ăn Meizan. Tổng trị giá các tài sản trên được định giá là 650.000 đồng (sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Hiện số tài sản trên đã được thu hồi trả lại cho chị H quản lý, sử dụng.

Với hành vi trộm cắp tài sản trị giá 650.000 đồng, nhưng trước đó bị cáo Đỗ Thị C đã có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân.

[4] Về nhân thân, các tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân rất xấu,bị cáo được xác định là chưa có tiền án, nhưng đã bị xét xử, xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi trộm cắp tài sản; bị cáo có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự. Người bị hại có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Xét thấy bị cáo đã bị xét xử và xử phạt hành chính nhiều lần về cùng hành vi nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật, do đó cần lên một mức án phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang bị bệnh hiểm nghèo, nhưng dù giảm phần nào cũng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và răn đe phường ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 73 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét thấy bị cáo làm ruộng, đang bị bệnh hiểm nghèo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng:

- Đối với 01 xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu HONDA, loại xe LEAD, biển kiểm soát 20B1-954.20 đăng ký xe mang tên Nguyễn Kim T (là chồng của bị cáo) bị cáo sử dụng khi đi trộm cắp tài sản của chị H, nhưng chiếc xe này là của chồng bị cáo, việc bị cáo sử dụng xe đi trộm cắp tài sản chồng của bị cáo là anh T không biết, bị cáo đề nghị Tòa án cho xin lại chiếc xe trên. Tại phiên tòa hôm nay anh T đề nghị được xin lại chiếc xe trên làm phương tiện sinh hoạt cho gia đình. Xét đề nghị của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ nên Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho anh T là chủ sở hữu quản lý sử dụng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20B1-954.20.

- Đối với 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Mobiistar, số IMEI 352223025457187, bên trong có gắn 1 sim điện thoại mạng di động Viettel có số sim 8984048008825075762 bị cáo khai để sử dụng không dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này theo C khai còn có đối tượng tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ) là người mà C nhờ cầm số tài sản trộm cắp của chị H mang đi trước. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chủ số thuê bao mà C đã gọi cho H. Hiện nay chưa có văn bản trả lời của cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đã tách tài liệu, tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Thị C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đỗ Thị C 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án, được trừ đi thời gian đã bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2018 đến ngày 05/6/2018. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét, giải quyết.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả cho anh Nguyễn Kim T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead, màu sơn xám, biển kiểm soát 20B1-954.20, xe đã qua sử dụng, số khung 451XFY862390, số máy JF45E0927285, xe có đầy đủ hai gương.

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động đã qua sử dụng, nhãn hiệu Mobiistar, mầu trắng xanh, số IMEI 352223025457187, bên trong có gắn 1 sim điện thoại mạng di động Viettel có số sim 8984048008825075762.

(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/8/2018).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Đỗ Thị C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại (chị H) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về