Bản án 65/2018/HSST ngày 20/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 65/2018/HSST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 03 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2018/HSST ngày 12-02-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2018/QĐ-HSST ngày 09-3-2018 đối với bị cáo:

Trần Đức V - sinh năm 1961 tại tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Số 383 đường T, phường P, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: công nhân nghỉ hưu; Trình độ văn hoá: lớp 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đức H và bà Đinh Thị D; Có 01 vợ và 02 con; Tiền án: Ngày 22-7-2008, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Ngày 24-5-2012, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Ngày 17-12-2015, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28-11-2017 (có mặt).

- Người làm chứng: anh Vũ Đức Đ, anh Dương Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 28-11-2017, Tổ công tác Công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ba tầng đường Phan Bội Châu, thành phố Nam Định phát hiện Trần Đức V đang đi xe đạp một mình có biểu hiện nghi vấn. Khi đi đến trước cửa số nhà 284 đường Trần Quang Khải, thành phố Nam Định, Tổ công tác đã yêu cầu V dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã thu giữ trên tay V 01 gói nhỏ nilon màu hồng, bên trong được gói bằng giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng chứa chất bột dạng cục màu trắng (V khai là gói Heroine vừa mua để sử dụng). Tổ công tác tiến hành niêm phong vật chứng, tạm giữ chiếc xe đạp V đang đi, đưa V cùng người làm chứng về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Trần Đức V. Tại bản kết luận giám định số 942/GĐKTHS ngày 30-11-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine, khối lượng mẫu là: 0,134gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Đức V đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 28-11-2017, V đi xe đạp một mình từ nhà đến khu vực ba tầng đường Phan Bội Châu, thành phố Nam Định gặp và mua của một thanh niên (không rõ lai lịch) 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng sau đó cầm gói ma túy trên tay trái đi tìm nơi sử dụng. Đến trước cửa số 284 đường Trần Quang Khải, thành phố Nam Định thì V bị phát hiện bắt giữ.

Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho V, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nam Định đang tiến hành xác minh, nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Chiếc xe đạp đã tạm giữ của V, xét không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm Viết K.

Bản cáo trạng số 70/QĐ-KSĐT ngày 09-02-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Trần Đức V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Đức V khai: Ngày 28-11-2017, bị cáo đi mua 01 gói ma túy cất giấu trong tay trái mục đích để sử dụng thì bị Công an kiểm tra, bắt giữ; thu giữ và niêm phong gói ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội: khoản 3 Điều 7, điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không áp dụng hình phạt bổ sung;

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng đã thu giữ. Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định số 942/GĐKTH ngày 30-11-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định cùng toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 28-11-2017, tại khu vực trước cửa số nhà 284 đường Trần Quang Khải, thành phố Nam Định, Trần Đức V đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,134gam Heroine để sử dụng thì bị Công an phường Bà Triệu, thành phố Nam Định phát hiện bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Bị cáo bị truy tố về hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên căn cứ theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là những tình tiết có lợi cho bị cáo để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm kiếm lời bất chính nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Án phí: Bị cáo Trần Đức V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ  vào điểm p khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7, điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố Trần Đức V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Trần Đức V 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 28-11-2017.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 942/GĐKTHS. (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01-02-2018).

3. Án phí: Bị cáo Trần Đức V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Đức V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HSST ngày 20/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về