Bản án 65/2018/HS-ST ngày 17/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 65/2018/HS-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố SócTrăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:43/2018/TLST-HS ngày 18-7-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXHS-ST ngày 16-8-2018 đối với bị cáo:

Nhâm Hoàng V, tên gọi khác: H; Sinh năm 1992; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: đường L, khóm A, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam; Dân tộc: Hoa; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Nhâm L, sinh năm1970 và bà: Lý Thị Ngọc M, sinh năm 1970. Họ và tên vợ: Thạch Thị Yến H, sinh năm 1994. Con: có 01 người, sinh năm 2015. Anh, chị em ruột: có 02 người, lớn sinh năm 1991, nhỏ là bị cáo. Tiền án: 01 lần, Vào ngày 29-11-2017 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng tuyên phạt 07 tháng tù, về Tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30-01-2018 nhưng chưa được xóa án tích. Tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09-5-2018 và chuyển tạm giam cho đến nay. (có mặt

- Người bị hại : ông Cao Văn N, sinh năm 1982; Địa chỉ: xã A, huyện C,tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. ông Huỳnh Văn C, sinh năm 1996; Địa chỉ: xã A, huyện C, tỉnh SócTrăng; (vắng mặt)

2. ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1991

Địa chỉ: đường T, Khóm C, Phường D, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ, ngày 09 tháng 5 năm 2018, Nhâm Hoàng V đi bộ trên đường Đoàn Thị Điểm, khóm 5, phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Khi đi đến kho hàng tại số 121, đường Đoàn Thị Điểm của anh Cao Văn N thì V phát hiện kho hàng đã khóa cửa ngoài không có người trông giữ nên V nảy sinh ý định đột nhập vào trong kho hàng để tìm tài sản trộm cắp. Với ý định đó, V đi ra phía sau kho hàng nhặt 01 (một) thanh sắt vuông dài khoảng 130 cm có sẵn tại đây rồi đi ra bên hong kho hàng dùng thanh sắt cạy bung khung cửa sổ đột nhập vào trong kho hàng. Khi vào trong kho, V lấy 02 (hai) màn hình máy tính, 01 (một) máy in, 01 (một) bộ loa gồm 01 (một) thùng loa lớn và 04 (bốn) thùng loa nhỏ, 01 (một) thanh sắt cong dùng để treo màn hình máy tính. Sau khi lấy được tài sản, V bỏ tất cả vào trong bao rồi mở cửa sau đi ra ngoài. Khi đi đến bên hong kho hàng, V bỏ lại thanh sắt cong treo màn hình máy tính rồi đem bao đồ cất giấu ở đống rơm trên đường Đoàn Thị Điểm và đi về nhà người cậu tên S để ngủ. Đến sáng cùng ngày, V đến lấy bao đồ đựng tài sản trộm được để tại gốc cây cóc trước nhà chị Nguyễn Thanh Thảo L tại số 495/12 đường Lê Hồng, khóm 5, phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Lúc này, V mở bao đựng đồ ra rồi dùng điện thoại di động chụp hình 02 (hai) màn hình máy tính, 01 (một) thùng loa lớn. Sau đó, V liên hệ với người bạn Huỳnh Văn C nhờ tìm người mua số tài sản mà V trộm được nhưng V không nói với C biết là số tài sản trên là do V trộm cắp của người khác mà có. Lúc này, C liên hệ với Nguyễn Hoàng M và hẹn gặp nhau tại quán cà phê đường Văn Ngọc Chính, phường 3, thành phố Sóc Trăng. Khi gặp, V đưa số hình chụp bằng điện thoại cho M xem thì M thống nhất mua số tài sản này với giá 1.500.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong, V điều khiển xe mô tô đến nhà L lấy 02 (hai) màn hình máy tính và 01 (một) thùng loa lớn mang đến quán cà phê cho M xem, số tài sản còn lại V để tại gốc nhà L. Trong lúc M đang xem tài sản mà V đem lại thì bị lực lượng Công an bắt giữ.

Tại kết luận định giá tài sản số 64, ngày 11 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng định giá thành phố Sóc Trăng, kết luận: 01 (một) màn hình máy vi tính hiệu Compaq B201, màu đen, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 95%, có giá là 1.805.000 đồng; 01 (một) màn hình máy vi tính hiệu Compaq R191, màu đen trắng, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 95%, có giá 1.890.500 đồng;01 (một) thùng loa máy tính hiệu MoundMax A-8900, màu đen, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 95%, có giá 1.339.500 đồng. Tổng các tài sản có giá là5.035.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 78, ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Hội đồng định giá thành phố Sóc Trăng, kết luận: 04 (bốn) loa nhỏ hiệu SoundMax, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 50%, có giá là 228.000 đồng; 01 (một) thanh sắt tròn có hình cong dài khoảng 50 cm, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá là 120.000 đồng; 01 (một) máy in màu trắng, nắp màu đen hiệu broder, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 90%, có giá là 3.330.000 đồng. Tổng các tài sản có giá là 3.678.000 đồng

Như vậy, tổng số tiền mà Nhâm Hoàng V đã chiếm đoạt là 8.713.000 đồng.

Tại cáo trạng số 44/CT-VKS.TPST ngày 13-7-2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nhâm Hoàng V về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nhâm Hoàng V về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều  52; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo V từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường

+ Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh sắt vuông dài 130cm đã qua sử dụng;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, vắng mặt người bị hại Cao Văn N; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Văn C, Nguyễn Hoàng M. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt của những người trên cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Nhâm Hoàng V khai nhận: Bị cáo V do không có nghề nghiệp ổn định, nghiện ma túy, vì muốn có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 00 giờ ngày 09-5-2018 bị cáo V một mình đi bộ trên đường Đoàn Thị Điểm để tìm tài sản trộm, khi đi đến nhà số 121 đường Đoàn Thị Điểm thì phát hiện không ai trông coi nên bị cáo V dùng thanh sắt cạy cửa, đột nhập vào nhà lấy trộm 02 màn hình máy tính, 01 máy in, 01 bộ loa và 01 thanh sắt cong dùng để treo màn hình máy tính rồi đem đi cất giấu. Sau đó bị cáo V nhờ ông Huỳnh Văn C tìm người bán số tài sản trên, trong lúc bán tài sản thì bị công an bắt giữ. Qua định giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 8.713.000 đồng.

[4] Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo V hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản của người bị hại Cao Văn N có giá trị trên 2.000.000 đồng. Từ hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) , cho nên cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Vũ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [5] Xét tình tiết tăng nặng, bị cáo có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 07 tháng tù, chấp hành xong ngày 30-01-2018, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại nên gây thiệt hại không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Xử lý vật chứng: Đối với vật chứng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy: 01 thanh sắt vuông dài 130cm đã qua sử dụng;

[9] Đối với hành vi của ông Huỳnh Văn C giới thiệu cho bị cáo bán tài sản chiếm đoạt cho Nguyễn Hoàng M, nhưng ông C không biết tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên hành vi của ông C chưa đủ cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự.

[10] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức trung bình như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm h, s Khoản 1Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm2017)

1. Tuyên bố: bị cáo Nhâm Hoàng V phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt bị cáo Nhâm Hoàng V 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạnchấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09-5-2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 thanh sắt vuông dài 130cm đã qua sử dụng;

5. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2018/HS-ST ngày 17/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về