Bản án 65/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 65/2017/HSST NGÀY 17/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2017, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 60/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn B, tên gọi khác: Không, sinh ngày 22/4/1985 tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn C, xã B, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Doãn B và bà Nguyễn Thị T, chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 19/9/2014 bị Tòa án nhân dân thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, ngày 26/10/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt về địa phương ngày 24/4/2017; bị bắt ngày 17/6/2017 (Hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Đông Triều), có mặt.

Người bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn P, xã V, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Chị Vũ Thị H, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn Đ, xã A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn T, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 17/6/2017, Nguyễn Tuấn B đi bộ từ nhà đến khu vực thôn P, xã V, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến cổng nhà chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985, tại thôn Phúc T, xã V, thị xã Đ, B phát hiện trong sân nhà chị T dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu SymElegant biển kiểm soát 14H1-8527, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa, Biển mở cổng đi vào dắt xe ra ngoài rồi mở khóa điện và bấm đề xe để nổ máy, nhưng không nổ được máy, ngay lúc đó chị T phát hiện hô hoán và cùng người dân truy đuổi bắt quả tang.

Quá trình điều tra còn làm rõ, trước đó Nguyễn Tuấn B còn thực hiện một vụ trộm cắp khác, cụ thể: Khoảng 08 giờ ngày 02/6/2017, B đi bộ đến khu vực đồi na thuộc thôn Đ, xã A, thị xã Đ thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 34F4-2525 của chị Vũ Thị H, sinh năm 1976, trú tại thôn Đ, xã A, thị xã Đ dựng xe bên đường, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa, không có người trông coi, B liền nổ máy rồi điều khiển chiếc xe đến thôn T, xã H, thị xã Đ bán cho anh Hoàng Văn H với giá 800.000đ. Ngày 17/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều đã thu giữ chiếc xe trên tại nhà anh H.

Tại các bản kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG và 45/KLĐG ngày 20/6/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đông Triều, kết luận: Trị giá chiếc xe mô tô biển kiểm soát 34F1-2525 của chị Vũ Thị Hải là 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng). Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14H1-8527 của chị Nguyễn Thị T là 2.540.000đ (hai triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số: 61/KSĐT-HS ngày 05/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Nguyễn Tuấn B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, giữ nguyên quan điểm như nội dung Cáo trạng đã tuy tố; đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 17/6/2017, buộc bị cáo nộp lại số tiền 800.000đ tịch thu sung quỹ Nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, việc Viện kiểm sát đề nghị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị mức hình phạt là đúng người, đúng tội, nên không tranh luận.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn B khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 17/6/2017, tại thôn P, xã V, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Tuấn B đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu Sym Elegant biển kiểm soát 14H1-8527 trị giá 2.540.000đ của chị Nguyễn Thị T và trước đó vào ngày 02/6/2017, Nguyễn Tuấn B với hành vi, thủ đoạn tương tự đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 34F4-2525 của chị Vũ Thị H trị giá 3.500.000đ tại thôn Đ, xã A, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại chị Nguyễn Thị T và chị Vũ Thị H, cũng như lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H là người đã mua chiếc xe mô tô Honda Dream biển kiểm soát 34F4-2525 của bị cáo Biển; phù hợp với lời khai của người những người làm chứng anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Văn L, đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như; biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã Việt Dân lập hồi 13 giờ ngày 17/6/2017; bản ảnh, sơ đồ, biên bản xác định hiện trường do Công an thị xã Đông Triều lập ngày 31/8/2017; phù hợp với bản kết luận định giá tài sản số 44/KLĐG ngày 20/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đông Triều đã kết luận: 01 xe mô tô biển kiểm soát 34F4-2525, nhãn hiệu Honda Dream, là 3.500.000đ và kết luận định giá tài sản số 45/KLĐG ngày 20/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đông Triều đã kết luận: 01 xe mô tô biển kiểm soát 14H1-8527, nhãn hiệu Sym Elagant, là 2.540.000đ.

Do trước đó tại bản án số 66/2016/HSST ngày 26/10/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn B 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý, cho nên thuộc tình tiết định khung hình phạt: “Tái phạm nguy hiểm”. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Tuấn B phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo với một mức hình phạt tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét nhân thân của bị cáo cho thấy: Bị cáo là người trưởng thành có nhận thức xã hội và nhận thức pháp luật, nhưng lười lao động, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi trả lại người bị hại, nên áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, nhưng hai lần thực hiện hành vi phạm tội trong các ngày 02/6/2017 và ngày 17/6/2017, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhiều lần” theo điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Mặc dù được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với 02 chiếc xe mô tô đã được thu hồi trả lại cho những người bị hại và những người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không đề cập giải quyết.

Đối với số tiền 800.000đ bán xe cho anh H, bị cáo đã chi tiêu hết là tiền thu lời bất chính, cần buộc bị cáo nộp lại để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với anh Hoàng Văn H là người mua chiếc xe nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 34F4-2525 do Nguyễn Tuấn B bán, nhưng anh H không biết đây là tài sản do Biển trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý, và cũng không có yêu cầu gì thêm, nên không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn B 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 17/6/2017.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn B phải nộp 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2017/HSST ngày 17/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về