Bản án 65/2017/HS-ST ngày 10/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC- TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 65/2017/HS-ST NGÀY 10/10/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2017, tại TAND huyện M, xét xử sơ thẩm Công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 59/2017/TLST-HS ngày 19/9/2017 đối với bị cáo:

Lý Văn M; Sinh năm 1987 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: khu phố H, thị trấn P, huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Trình độ học vấn lớp 3; Nghề nghiệp: Không; Là con ông Lý Văn T và bà Trần Thị N ; Tiền án: Không có; Tiền sự: không có;

Bị cáo M bị bắt ngày 06/4/2017, đang bị tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Trần Thị N, sinh năm 1956; (Có mặt).

Địa chỉ: khu phố H, thị trấn P, huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;

- Công ty Tài chính TNHH một thành viên quốc tế Việt Nam J:

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Hoàng H, sinh năm 1988; Chức vụ: Trưởng phòng Công nợ. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Lý Văn M bị Viện Kiểm Sát Nhân Dân huyện M - tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 05/4/2017 Lý Văn M từ nhà, ở khu phố H, thị trấn P, huyện M, đi xe bus lên thành phố Bà Rịa, mua của đối tượng tên Chương (không rõ lai lịch) 37 gói ma túy đá với giá 19.000.000 đồng để sử dụng và bán cho các con nghiện. Trong tổng số 37 gói, M đã sử dụng một gói và bán cho Ngô Trung C hai lần, mỗi lần một gói cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 14 giờ, ngày 05/4/2017, C gọi điện cho M để mua 300.000 đồng ma túy đá, M đồng ý bán cho C một gói, tại khu vực gần quán Q, ở khu phố A, thị trấn P, huyện M.

Lần thứ hai: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 06/4/2017, Ngô Trung C tiếp tục gọi điện cho M hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, M đồng ý và hẹn điểm mua bán tại khu vực trước nhà nghỉ Th thuộc khu phố A, thị trấn P, huyện M. Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 06/4/2017, Minh điều khiển xe mô tô BS: 72G1- 446.10 đến điểm hẹn để giao ma túy; Đến nơi, M đưa cho C một gói ma túy và nhận của C 300.000 đồng thì bị lực lượng Công an thị trấn P bắt quả tang thu giữ trên người C một gói Nylon bên trong có chất kết tinh không màu, trong suốt vừa mua của M và thu giữ trên người của M điện thoại di động hiệu Sam sung (kèm sim điện thoại), 500.000 đồng (300.00 đồng là tiền vừa bán ma túy cho C), 01 xe mô tô biển số 72G1-446.10 và 34 gói nilon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt.

Tại cơ quan điều tra, Lý Văn M và Ngô Trung C còn khai nhận: Trước ngày 05/4/2017, Minh đã nhiều lần mua ma túy đá của đối tượng Đen (Không rõ lai lịch) ở xã M và cũng đã ba lần bán cho C, mỗi lần một gói ma túy đá, mỗi gói trị giá 500.000 đồng, nhưng không nhớ rõ ngày, cụ thể như sau: Lần 1: Tại khu vực gần

Quán cơm tấm Y, thuộc khu phố S, thị trấn P; Lần 2: tại Sân bóng đá T, ở khu phố S, thị trần P; lần 3: Tại khu vực phía trước Tiệm tạp hóa T đường 27/4, thị trấn P. Lời thừa nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của Ngô Trung C về số lần, địa điểm, số lượng và số tiền mua bán ma túy. Tuy nhiên sau khi biết C bỏ trốn, M đã thay đổi lời khai chỉ thừa nhận hành vi mua bán với C và các ngày 05 và 06 tháng 4 năm 2017 và cho rằng do lúc mới bị bắt, tinh thần còn hoảng loạn nên khai không đúng thực tế.

Tại kết luận giám định số 75/GĐ-PC54 ngày 12/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Cg an tỉnh BR-VT kết luận: Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín (mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 01), có hình dấu của Cg an thị trấn P, cùng các chữ ký ghi họ tên: Lý Văn M, Ngô Trung C, Đặng Hồng Q, Đỗ Duy B, Nguyễn T, gửi đến giám định không tìm thấy thành phần các chất ma túy thường gặp, có trọng lượng là 0,3743 gam; Chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 34 (ba mươi bốn) gói nylon hàn kín (mẫu A2), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 02), có hình dấu của Công an thị trấn P, cùng các chữ ký ghi họ tên: Lý Văn M, Đặng Hồng Q, Đỗ Duy B, Nguyễn T, gửi đến giám định có trọng lượng là 15,0749 gam, có Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 66/QĐ-KSĐT ngày 15/9/2017 của VKSND huyện M: truy tố bị cáo Lý Văn M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện M vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khỏan 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp đụng khoản 2 và khoản 5 điều 194, điểm p khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999 xử phạt: bị cáo M từ 8 đến 9 năm tù, phạt bổ sung đối với bị cáo M từ 5 đến 10 triệu đồng.

Bị cáo M thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên toà, bị cáo Lý Văn M thừa nhận hành vi bán ma túy cho Dương Trung C hai lần vào các ngày 05 và 06/4/2017, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của Dương Trung C và các chứng cứ thu thập được qua quá trình điều tra, cho thấy: Vào ngày 05/4/2017 đến thành phố Bà Rịa, mua của đối tượng tên Chương (không rõ địa chỉ cụ thể) 37 gói ma túy đá với giá 19.000.000 đồng để sử dụng và bán cho các con nghiện. Khi Dương Trung C hỏi mua ma túy vào ngày 05/4/2017, bị cáo M đã bán ma túy cho C tại khu phố A và nhận số tiền 300.000 đồng, C đã sử dụng ma túy đã mua. Đến ngày 6/4/2017, bị cáo M tiếp tục bán ma túy cho Dương Trung C tại khu phố A và nhận số tiền 300.000 đồng thì bị Công an thị trấn P bắt quả tang.

Theo kết quả giám định, thì vào ngày 6/4/2017, bị cáo M đã bán cho Dương Trung C chất kết tinh không màu, không tìm thấy chất ma túy, có trọng lượng 0,3743 gam; và Công an thị trấn P đã thu giữ từ bị cáo M đang giữ trong người lượng ma túy tổng hợp Methamphetamine, trọng lượng 15,0749 gam với mục đích bán cho người khác, nhưng chưa bán được. Trường hợp của bị cáo M bán chất không phải là ma túy cho Dương Trung C vào ngày 6/4/2017, nhưng bị cáo M ý thức là mình mua ma túy của người khác và bán lại ma túy cho Dương Trung C, bị cáo M vẫn phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

Từ những chứng cứ nêu trên, có căn cứ xác định là bị cáo M đã 2 lần bán ma túy cho Dương Trung C vào các ngày 05 và 06/4/2017, bị cáo M đang tàng trữ lượng ma túy tổng hợp Methamphetamine, trọng lượng 15,0749 gam với mục đích bán cho người khác. Do đó bị cáo M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị xử phạt theo điểm b khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự theo tình tiết định khung là phạm tội nhiều lần.

Theo lời trình bày của Dương Trung C và của bị cáo M tại Công an thị trấn P, Dương Trung C và bị cáo M có khai là Dương Trung C có mua ma túy đá của Minh 3 lần khác, nhưng không xác định được ngày cụ thể nào, Công an không thu giữ được lượng ma túy. Sau đó Dương Trung C bỏ trốn, không để lại địa chỉ, nên cơ quan điều tra không làm việc được. Vì vậy chưa có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo M về lời khai của Dương Trung C có mua ma túy của bị cáo M 3 lần nhưng không rõ ngày mua bán.

Hành động phạm tội của các bị cáo Lý Văn M xâm phạm quyền quản lý của nhà nước đối với chất gây nghiện, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Xét thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra, để giáo dục riêng và phòng ngừa chung,

Tuy nhiên, qua vụ án này, xét thấy: Trước khi phạm tội thì bị cáo M chưa có tiền án tiền sự; Nên cân nhắc tình tiết nêu trên đề lượng hình đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, nên áp dụng khoản 5 điều 194 BLHS xử phạt bị cáo M 5 triệu đồng để sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng trong vụ án:

- Xe mô tô biển số: 72G1-446.10 màu đen bạc, nhãn hiệu Yamaha, loại xe 2 bánh, số loại NVX, số máy: G3H9E007732, số khung: RLCSG4510HY007725. Bị cáo sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy là xe do bị cáo đứng tên trong giấy đăng ký xe, nhưng bị cáo mua trả góp nên giấy Đăng ký bản chính hiện Cg ty TNHH một thành viên Quốc tế Việt nam J đang giữ. Qua lời trình bày của bị cáo M và của mẹ bị cáo là bà Trần Thị N xác định là bị cáo mua dùm xe cho bà N, trong thực tế thì sau khi mua xe thì bà N thanh toán tiền góp vì bị cáo bị bắt do hành vi mua bán ma túy. Nên chấp nhận yêu cầu của bà N, hoàn trả lại xe mô tô nêu trên cho bà N là phù hợp;

- 01 điện thoại di động Samsung GT-E 1200Y màu đen, số IMEI: 356902080287052 (kèm sim điện thoại số: 0898676216) là Công cụ bị cáo dùng thực hiện tội phạm và số tiền 300.000 đồng là số tiền do bị cáo M phạm tội mà có. Nên tịch thu các vật chứng này sung quỹ nhà nước;

- Số tiền 200.000 đồng là tiền của bị cáo không có liên quan đến việc phạm tội, nên hoàn trả lại cho bị cáo.

- 02 phong bì đã niêm phong có số thứ tự 75/1 và 75/2 là mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận số 75/GĐ-PC54 ngày 12/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BR-VT. Đây là lượng ma túy mà bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu, tiêu hủy các vật chứng này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/-Tuyên bố: Bị cáo Lý Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2/- Áp dụng điểm b khoản 2 và khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999:

- Xử phạt bị cáo Lý Văn M 7 (Bảy) năm tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/4/2017.

- Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Lý Văn M 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước;

3/- Áp dụng điều 41 Bộ luật hình sự, điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước vật chứng do bị cáo Lý Văn M giao nộp gồm: 01 điện thoại di động 01 điện thoại di động Samsung GT-E 1200Y màu đen, số IMEI: 356902080287052; Số tiền 300.000 đồng.

- Tịch thu, tiêu hủy vật chứng do bị cáo Lý Văn M giao nộp gồm: 01 sim điện thoại số: 0898676216.

- Tịch thu, tiêu hủy 02 phong bì đã niêm phong có số thứ tự 75/1 và 75/2 là mẫu vật còn lại sau giám định theo kết luận số 75/GĐ-PC54 ngày 12/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh BR-VT;

- Hoàn trả cho bị cáo Lý Văn M: Số tiền 200.000 đồng.

- Hoàn trả cho bà Trần Thị N: Xe mô tô biển số: 72G1-446.10 màu đen bạc, nhãn hiệu Yamaha, loại xe 2 bánh, số loại NVX, số máy: G3H9E007732, số khung: RLCSG4510HY007725.

Các vật chứng nêu trên được Chi cục thi hành án dân sự huyện M tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/9/2017. thẩm.

4/- Về án phí: Bị cáo Lý Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ

5/- Bị cáo và đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2017/HS-ST ngày 10/10/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về