Bản án 64/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 05/2021/TB-TA ngày 12/5/2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn N, sinh ngày 25/4/1969 tại T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà 17, tổ 11, phường B, thành phố T, tỉnh T; chỗ ở: Thôn P, xã P, thành phố T, tỉnh T; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 5/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Văn Chức (đã chết) và bà Bùi Thị Tám (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Hà (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1993.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 03/1989/HSST ngày 19/01/1989, Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/11/1989. Qua xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình xác định không có sổ lưu trữ việc thi hành án phí và thi hành phần trách nhiệm dân sự của bản án.

Ngày 01/01/1991 bị Công an thị xã Thái Bình bắt tập trung cải tạo về tội hình sự. Xác minh tại trụ sở Công an phường B, thành phố T xác định không thể hiện trong hồ sơ, sổ sách lưu trữ.

Bản án số 01/HSST ngày 20/02/1995, Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình xử phạt 15 tháng tù về tội Chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/9/1995. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 19/9/1996.

Bản án số 157/ST ngày 07/10/1997, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/11/1999. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 04/7/1998.

Bản án số 105/2000/HSST ngày 13/11/2000 Tòa án nhân dân thị xã Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2003. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 21/9/2005.

Quyết định số 2893/QĐ - UBND ngày 24/12/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình về việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động - Xã hội thành phố Thái Bình do nghiện ma túy, trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 11/12/2009. Chấp hành xong ngày 11/12/2010.

Bản án số 158/2011/HSST ngày 17/10/2011, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/9/2013. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 22/02/2012.

Bản án số 140/2015/HSST ngày 15/9/2015, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/9/2017. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 23/9/2016.

Bị tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 15/01/2021 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người chứng kiến:

+ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1996, trú tại thôn G, xã Q, huyện K, tỉnh T. (Vắng mặt)

+ Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985, trú tại số nhà 10, tổ 5, phường B, thành phố T, tỉnh T. (Vắng mặt)

 + Ông Nguyễn Công C, sinh năm 1952, trú tại thôn P, xã P, thành phố T, tỉnh T. (Vắng mặt)

+ Ông Khiếu Xuân Th, sinh năm 1965, trú tại thôn P, xã P, thành phố T, tỉnh T. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 00 phút ngày 12/01/2021, Bùi Văn N điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu trắng, biển số 17B3 - 245.58 đến khu vực bến xe khách T thuộc phường Tr, thành phố T mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, N gặp và mua của 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ 10 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng. N nhận ma túy, cất vào túi quần bên trái phía trước N đang mặc rồi đi về chỗ ở của N tại thôn P, xã P, thành phố T, tỉnh T. N cất 02 gói ma túy vào túi áo ngực bên trái treo trên tường trong phòng ở của N, còn 08 gói ma túy còn lại N cho vào túi nilon trong suốt một mặt màu đen có chữ “thuốc lào đệ nhất” và cất túi nilon này trong túi quần bên trái phía trước đang mặc để sử dụng dần. Sau đó N tiếp tục điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu trắng, biển số 17B3 - 245.58 đi tìm chỗ để sử dụng ma túy. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày khi N đang dừng xe tại ven đường Đ, thuộc tổ 1, phường B, thành phố T thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Bình yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Văn Đ và anh Dương Ngọc H, N tự giác giao nộp từ túi quần bên trái phía trước của N đang mặc cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt một mặt màu đen có chữ “thuốc lào đệ nhất” bên trong có 08 gói trong đó có 06 gói được gói bằng giấy màu vàng có in hoa văn, 02 gói được gói bằng giấy tráng kim màu bạc, trong cùng cả 08 gói đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. N khai là Hêrôin vừa mua mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác niêm phong, ký hiệu M, kiểm tra người N thu tại túi quần bên trái phía trước 01 điện thoại Nokia, vỏ màu đen. Kiểm tra xe máy do N điều khiển không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản kiểm tra và quản lý điện thoại, phương tiện.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn N tại phòng trọ ở thôn P, xã P, thành phố T, tỉnh T. Thu tại túi áo ngực bên trái treo trên tường chỗ ở của Bùi Văn N 02 gói đều được gói bằng giấy tráng kim màu vàng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục (đã niêm phong, ký hiệu M1). Thu tại hòm tôn sắt chỗ ở của N số tiền 35.010.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 14/KLGĐMT - PC09 ngày 13/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

+ Mẫu M gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,6878 gam (Không phẩy sáu nghìn tám trăm bảy mươi tám gam).

+ Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,0590 gam (Không phẩy không nghìn năm trăm chín mươi gam).

Bản Cáo trạng số 62/CT-VKSTPTB ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để xét xử đối với Bùi Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm đã truy tố trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Văn N mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 02 phong bì bên ngoài ghi số 14/KLGĐMT. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo Bùi Văn N nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định, lời khai người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/01/2021, tại khu vực đường Đ, tổ 1, phường B, thành phố T, tỉnh T, Bùi Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 08 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,6878 gam. Cùng ngày Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn N thu 02 gói ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,0590 gam. Bùi Văn N khai nhận cất giấu số ma túy trên đều mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi trên của Bùi Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

Hành vi của Bùi Văn N là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, ma túy là loại chất gây nghiện gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, là nguyên nhân phá hoại hạnh phúc của bao gia đình và còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt về các hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[3] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố đối với bị cáo Bùi Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Số ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Văn N còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Đối với tài sản quản lý của bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã cũ không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 35.010.000 đồng và 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu trắng, biển số 17B3 - 245.58 qua điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1974, trú tại tổ 7, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình là vợ đã ly hôn của Bùi Văn N. Chị Hà cho Năm mượn chiếc xe trên để hành nghề xe ôm, chị Hà không biết việc N sử dụng xe đi mua ma túy. Ngày 20/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định trả lại cho chị Hà chiếc xe và số tiền 35.010.000 đồng. Chị Hà đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có ý kiến gì.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo Bùi Văn N khai mua ma túy của 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực bến xe khách Thái Bình thuộc phường Tr, thành phố T, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật hình sự, Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn N 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 12/01/2021).

3.Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của Bùi Văn N hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 02 phong bì số 14/KLGĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã cũ.

(Vật chứng trên đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/4/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 01/6/2021.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về