TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 64/2020/DS-PT NGÀY 20/07/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN BỊ XÂM HẠI
Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2020/TLPT-DS ngày 22 tháng 4 năm 2020 về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do T sản bị xâm hại.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 171/2019/DS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 94/2020/QĐ-PT ngày 11/6/2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Anh T; cư trú tại: Khu phố Đ, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định (có mặt).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T: Ông Lê Thành Tr – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định (có mặt).
- Bị đơn: Bà Phạm Thị H; cư trú tại: : Khu phố Đ, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Trần Anh T là nguyên đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Trần Anh T trình bày:
Ông có trồng 01 cây cừa trước nhà để làm cây cảnh và che nắng. Cây cừa này ông trồng trên 40 năm. Năm 2018, bà H tự ý chặt 09 nhánh cừa của ông. Những nhánh cừa này không lấn sang đất của bà H, nhưng bà H tự ý chặt phá. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H phải bồi thường cho ông giá trị 09 nhánh cừa là 80.000.000 đồng Bị đơn bà Phạm Thị H trình bày:
Bà và ông T là hàng xóm, trên đất của bà có 02 cây dừa có quả thu hoạch bình thường, ông T đã viết đơn gửi đến Ban nhân dân thôn yêu cầu bà chặt 02 cây dừa này vì sợ trái dừa rụng gây nguy hiểm. Bà đồng ý chặt dừa với điều kiện ông T phải chặt bỏ những nhánh cừa lấn sang đất của bà. Vì những nhánh cừa này che hết một phần đất của gia đình bà. Bà và ông T thống nhất chặt 02 cây dừa và những nhánh cừa lấn sang đất của bà, hai bên đã ký vào biên bản hòa giải tại thôn Đ, xã H, huyện H. Sau khi thỏa thuận, bà đã gọi thợ đến cưa 02 cây dừa của bà và 09 nhánh cừa lấn sang đất của bà. Nay ông T yêu cầu bà bồi thường thiệt hại thì bà không đồng ý.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 171/2019/DS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân thị xã H quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Anh T về việc ông yêu cầu bà Phạm Thị H bồi thường cho ông 09 nhánh cừa, với số tiền 80.000.000 đồng vì không có căn cứ.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 06/11/2019, ông Trần Anh T kháng cáo Bản án sơ thẩm số: 171/2019/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Định. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết buộc bà Phạm Thị H phải bồi thường thiệt hại cho ông.
Ông Lê Thành Tr phát biểu luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Anh T: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và miễn án phí cho ông T.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Anh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Xét kháng cáo của ông Trần Anh T, HĐXX thấy rằng: Ông Trần Anh T là chủ sử dụng thửa đất số: 153 tờ bản đồ 50 tại Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định. Tại Biên bản hòa giải ngày 20/01/2018 của Ban nhân dân Thôn Đ, xã H, Biên bản làm việc ngày 18/6/2019 giữa Toà án nhân dân huyện H và Ủy ban nhân dân xã H và Biên bản xác minh ngày 23/92019 đều thể hiện cây cừa mà ông Trần Anh T cho rằng do ông trồng, là cây mọc tự nhiên trên bờ suối mương Ba Bàu, không mọc trên thửa đất số: 153 tờ bản đồ 50 của ông T mà mọc trên đất do Ủy ban nhân dân xã H quản lý. Ông Trần Anh T không có chứng cứ gì để chứng minh cây cừa là do ông trồng, chăm sóc và thuộc sở hữu của ông. Do đó, cấp sơ thẩm không chấp nhận việc ông Trần Anh T yêu cầu bà Phạm Thị H phải bồi thường thiệt hại 09 nhánh cừa bị chặt với giá trị 80.000.000 đồng là có căn cứ.
[2] Về án phí, chi phí tố tụng khác:
[2.1] Án phí: Cấp sơ thẩm lấy lý do ông Trần Anh T là Thương binh, người có công với cách mạng để miễn nộp tạm ứng án phí, án phí cho ông T là không có căn cứ, bởi lẽ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì Thương binh không phải là đối tượng được miễn nộp tạm ứng án phí, án phí và trong hồ sơ vụ án không có chứng cứ thể hiện ông Trần Anh T là người có công với cách mạng. Tuy nhiên, ông T vẫn là đối tượng được miễn nộp tạm ứng án phí, án phí vì ông là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi. Do đó, cấp sơ thẩm nên rút kinh nghiệm về vấn đề này.
[2.1] Chi phí tố tụng khác: Ông Trần Anh T phải chịu 1.500.000 đồng chi phí định giá T sản tranh chấp vì yêu cầu của ông T không được chấp nhận. số tiền này ông T đã nộp, chi xong.
[3] Từ những phân tích trên, xét thấy kháng cáo của ông Trần Anh T là không có cơ sở nên không được HĐXX chấp nhận. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 171/2020/DS-ST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện H.
[4] Luận cứ bảo vệ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trần Anh T của ông Lê Thành Tr là không phù hợp với nhận định của HĐXX nên không được chấp nhận.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết vụ án là phù hợp nhận định của HĐXX.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 484, của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 2 Luật người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Anh T. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 171/2019/DS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện H.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Anh T về việc ông yêu cầu bà Phạm Thị H bồi thường cho ông 09 nhánh cừa với số tiền 80.000.000 đồng.
2. Về án phí, chi phí tố tụng khác:
2.1. Án phí: Ông Trần Anh T được miễn toàn bộ án phí.
2.2. Chi phí tố tụng khác: Ông Trần Anh T phải chịu 1.500.000 đồng chi phí định giá Tài sản tranh chấp. số tiền này ông T đã nộp, chi xong.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án 64/2020/DS-PT ngày 20/07/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm hại
Số hiệu: | 64/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về