Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 31/12/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị T và anh Đ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ T VÀ ANH Đ

Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2019/TLST–HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung, theo quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 66/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 và quyết Đ hoãn phiên tòa số 46/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T sinh năm 1981 - Bị đơn: Anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) sinh năm 1977 Cùng nơi cư trú: Thôn Q, xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có chị T, vắng mặt anh Đ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 20/8/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) tự do, tự nguyện tìm hiểu dẫn đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện P vào ngày 22/01/2000. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh Đ. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ chơi bời, cờ, bạc, không tu chí làm ăn, không quan tâm đế gia đình vợ, con, đã nhiều lần chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống nhưng vì thương con chị đã quay về chung sống với anh Đ. Mâu thuẫn căng thẳng vào tháng 4/20019 chị đã bỏ hẳn về nhà bố mẹ đẻ ở cùng Thôn sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn, chị xin ly hôn anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Vũ Đình M sinh ngày 02/02/2002 và Vũ Thị H sinh ngày 15/12/2011, hiện cả hai con đang ở với chị. Ly hôn, chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Hiện tại chị không có thai nghén gì.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/11/2019, bị đơn anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác định thời gian, điều kiện và điều kiện kết hôn. Anh xác định đến năm 2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế gia đình khó khăn xuất phát từ việc anh chơi bời, cờ bạc. Nhiều lần vợ chồng mâu thuẫn chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, lần gần đây nhất tháng 11/2019 chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh anh không đồng ý vì tình cảm vợ chồng giữa anh và chị T vẫn còn.

Về con chung: Anh xác nhận vợ chồng có 02 con chung như chị Nguyễn Thị T đã trình bày, nếu ly hôn xảy ra anh để chị T trực tiếp trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, việc cấp dưỡng cho con giải quyết theo quy Đ của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết Kết quả xác minh với cơ sở thôn Q, xã K thấy: Chị chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) là vợ chồng cùng có nơi cư trú tại thôn An Quý, xã An Khê, quá trình chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng thì cơ sở thôn không biết, chỉ biết một phần do kinh tế gia đình khó khăn, anh Đ chơi bời, cờ bạc, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình, vợ con. Chị T và anh Đ có 02 con chung là Vũ Đình M sinh ngày 02/02/2002 và Vũ Thị H sinh ngày 15/12/2011. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh Đ cơ sở thôn đề nghị về quan hệ hôn nhân, nuôi con chung và cấp dưỡng cho con đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt nên Viện kiểm sát không có ý kiến nhận xét về việc tuân theo pháp luật của bị đơn tại phiên tòa.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ); giao 02 con chung Vũ Đình M sinh ngày 02/02/2002 và Vũ Thị Hsinh ngày 15/12/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ đi lại trông nom và giáo dục con chung; về tài sản chung không đặt ra giải quyết; chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T khởi kiện ly hôn, nuôi con chung với anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ). Do anh Đ là bị đơn cư trú tại Thôn Q, xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình nên TAND huyện Quỳnh Phụ, thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã K, huyện P, tỉnh Thái Bình cấp giấy đăng ký kết hôn số 10 ngày 22/01/2000 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống nhiều lần vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Đ không tu chí làm ăn, kinh tế gia đình khó khăn, anh Đ chơi bờ, cờ bạc từ đó không quan tâm đến gia đình, vợ con, nhiều lần chị T đã bỏ về bố mẹ đẻ ở cùng Thôn sinh sống nhưng vì thương con chị đã quay về đoàn tụ, hiện tại vợ chồng đã ly thân. Nay chị T có đơn xin ly hôn anh Đ, anh Đ không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra biện pháp nào để hàn gắn,cải T quan hệ vợ chồng, vợ chồng vẫn tiếp tục ly thân. Anh Đ đã nhận được văn bản tố tụng của Tòa án nhưng anh Đ vẫn vắng mặt tại phiên hòa giải và vắng mặt tại các buổi tố tụng của Tòa án. Điều đó chứng tỏ anh Đ không có T chí hòa giải, không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Như vậy, hôn nhân của anh, chị thực tế chỉ tồn tại về mặt hình thức, anh, chị thực sự không thể chung sống với nhau được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị T, xử cho chị T được ly hôn anh Đ là phù hợp với Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) có 02 con chung Vũ Đình M sinh ngày 02/02/2002, hiện đang học lớp 12A10 trường THPT QT và Vũ Thị H sinh ngày 15/12/2011, hiện đang học lớp 3B trường Tiều học K, cả hai con đều đang ở với chị T. Ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con con chung, anh Đ cũng nhất trí để chị T trực tiếp nuôi con chung. Xét nguyện vọng nuôi con của chị T là chính đáng, hơn nữa con chung đang ở với chị T và có nguyện vọng ở với chị T. Để không ảnh hưởng đến việc học tập, sinh hoạt của các con chung cũng như đáp ứng nguyện vọng của con chung và phù hợp với ý kiến của anh Đ nên chấp nhận yêu cầu của chị T, xử cho chị T được nuôi con cả hai chung là Vũ Đình M và Vũ Thị H, chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con, anh Đ có quyền, nghĩa vụ trông nom, giáo dục con chung là phù hợp với Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên về tài sản nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy Đ tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy Đ về án phí, lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ có quyền kháng cáo bản án theo quy Đ của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy Đ về án phí, lệ phí Toà án:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ).

2.Về quan hệ con chung: Xử giao con chung Vũ Đình M sinh ngày 02/02/2002 và Vũ Thị H sinh ngày 15/12/2011 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004148 ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Vũ Văn Đ (Vũ Đình Đ) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 31/12/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị T và anh Đ

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về