Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 3 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 89/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trƣơng Kiều D – sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Nguyễn Phƣớc H – sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Tại phiên tòa, chị D có mặt, anh H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/02/2019 và tại phiên tòa chị Trương Kiều D trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh H sống chung năm 1990, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Khánh Hải năm 2018 theo quy định của pháp luật. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàng gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con chung: Có 4 người con chung là cháu Nguyễn Bé T, sinh năm 1992, Nguyễn Phước T, sinh năm 1994, Nguyễn Khánh D, sinh năm 1997 và cháu Nguyễn Kiều M, sinh ngày 28/7/2003. Hiện các cháu Thảo, Tài, Duy đã trưởng thành và có cuộc sống riêng ổn định. Đối với cháu My hiện vẫn chưa đến tuổi trưởng thành và đang sống cùng với chị. Chị yêu tiếp tục nuôi dưỡng cháu My, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

Tại bản tự khai ngày 14/02/2019 anh H xác định:

Về hôn nhân: Anh và chị D sống chung năm 1990, hôn nhân do anh tự nguyên không ép buộc, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết theo đúng quy định pháp luật. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Hiện anh không còn tình cảm với chị D, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàng gắn được nên anh đồng ý ly hôn với chị D.

Về con chung: Có 4 người con chung là cháu Nguyễn Bé T, sinh năm 1992, Nguyễn Phước T, sinh năm 1994, Nguyễn Khánh D, sinh năm 1997 và cháu Nguyễn Kiều M, sinh ngày 28/7/2003. Hiện các cháu Thảo, Tài, Duy đã trưởng thành và có cuộc sống riêng ổn định. Đối với cháu My hiện vẫn chưa đến tuổi trưởng thành và đang sống cùng với chị D, anh đồng ý yêu cầu của nguyên đơn.

Về tài sản chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Phước H vắng mặt tại các phiên hoàn giải, xét xử của tòa án, tuy nhiên, tại bản tự khai ngày 14/02/2019 anh H đề nghị được xét xử vắng mặt anh. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Chị D và anh H tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 11/5/2018 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh H được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàng gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh H đồng ý với yêu cầu của chị D. Tại phiên tòa, chị D xác định chị không còn tình cảm vợ chồng với anh H và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh H. Trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị D được ly hôn với anh H.

[4] Về con chung: Chị D và anh H có 4 người con chung là cháu Nguyễn Bé T, Nguyễn Phước Tài, Nguyễn Khánh Duy và cháu Nguyễn Kiều M. Hiện các cháu Thảo, Tài, Duy đã trưởng thành và có cuộc sống riêng ổn định nên tòa án không xem xét. Đối với cháu My hiện vẫn chưa đến tuổi trưởng thành và đang sống cùng với chị D. Chị D và anh H thống nhất giao cháu My cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Tòa án có ghi nhận ý kiến cháu My và cháu có nguyện vọng sống với chị D. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu My cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của các bên và đúng với quy định của pháp luật.

[5] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Chị D không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con, đây là ý chí tự nguyện của chị D nên được chấp nhận.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D và anh H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, chị có nộp 300.000 đồng. Anh H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Kiều D về việc yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Phước H.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trương Kiều D được ly hôn với anh Nguyễn Phước H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Kiều M, sinh ngày 28/7/2003 cho chị Trương Kiều D trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Phước H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Anh Nguyễn Phước H không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Trương Kiều D phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình. Chị có nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002722 ngày 18 tháng 02 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ, chị Trương Kiều D không phải nộp tiếp.

Chị Trương Kiều D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Phước H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 29/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về