Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 170/2019/TLST-HNGĐ ngày 08/7/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân gia đìnhtheo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 53/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09/10/2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trần Thị K, sinh năm 1982.

* Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1972.

Đu có địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn xin ly hôn và trong quá trình tố tụng tại Tòa án cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn - Chị Trần Thị K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bùi Văn T tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn với nhau, được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đăng ký kết hôn vào ngày 28 tháng 12 năm 2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình nhà anh T ở Thôn B, xã Đ, huyện T.

Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 14 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay lại chung sống với nhau được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị và anh T một con chung là Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004. Nguyện vọng của chị sau khi ly hôn là muốn được trực tiếp nuôi con chung.Tuy nhiên, hiện nay con chung đang do anh T trực tiếp nuôi dưỡng và qua liên lạc với anh T bằng điện thoại, anh T không đồng ý để chị nuôi con nên chị chấp nhận nhường con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn: Tòa án đã triệu tập bị đơn là anh Bùi Văn T nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án để làm việc. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bố đẻ anh T là ông Bùi Ngọc Tr và về địa phương để xác minh tình trạng hôn nhân giữa anh T và Chị K.

Ti biên bản lấy lời khai ngày 25/9/2019 ông Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Văn T và Chị Trần Thị K kết hôn với nhau là tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T vào ngày 28/12/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại Thôn B, xã Đ, quá trình chung sống vợ chồng cũng có những mâu thuẫn nhỏ và hiện nay thì anh T, Chị K mỗi người sống một nơi. Nay Chị K có đơn xin ly hôn anh T quan điểm của ông là không đồng ý ly hôn vì gia đình ông và anh T theo đạo Thiên chúa nên không bao giờ bỏ vợ.

Về quan hệ con chung: Anh T và Chị K có một con chung là Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004, hiện đang do anh T tiếp nuôi dưỡng. Nếu việc ly hôn giữa anh T và Chị K xảy ra ông đề nghị Tòa giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng Về quan hệ tài sản chung: Giữa anh T và Chị K có tài sản gì chung không và có nợ nần gì chung không thì ông không biết.

Hiện tại anh T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã Đ, huyện Tiền Hải nhưng anh T dẫn theo con chung là cháu Hạnh đang đi làm ăn ở trên Hà Nội nhưng làm gì và địa chỉ cụ thể ở đâu thì ông ông biết mặc dù anh T vẫn thường xuyên về thăm gia đình nhưng anh T không nói cho ông biết.

Ti biên bản xác minh ngày 24 tháng 9 năm 2019 UBND xã Đ, huyện T cung cấp như sau: Anh Bùi Văn T và Chị Trần Thị K tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình vào ngày 28/12/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Thôn B, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống anh T và Chị K có xảy ra mâu thuẫn tuy nhiên mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì địa phương không nắm được. Chị K và anh T có có 01 con chung là Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004, hiện con đang ở cùng anh T. Về tài sản chung và nợ chung của anh T và Chị K địa phương không nắm được. Nay Chị K có đơn xin ly hôn anh T và nhường con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Hiện tại anh T vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã Đ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Anh T dẫn theo con là cháu Bùi Thị Mỹ H đi làm ăn ở Hà Nội nhưng anh T làm gì và ở địa chỉ cụ thể nào thì địa phương không biết, chỉ thấy anh T và cháu Hạnh vẫn thường xuyên về thăm gia định tại Thôn B, xã Đ.

Ti đơn trình bày của cháu Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004 có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền thể hiện: Nguyện vọng của cháu Hạnh xin được tiếp tục được chung sống bố.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, nguyên đơn là Chị K, đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh T không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và 72 của Bộ luật luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho Chị Trần Thị K được ly hôn anh Bùi Văn T.

Về quan hệ con chung: Giao con chung Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004 cho anh Bùi Văn T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Xét thấy nguyên đơn là Chị Trần Thị K khởi kiện xin ly hôn anh Bùi Văn T, anh T có địa chỉ thường trú tại Thôn B, xã Đ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã thụ lý và giải quyết yêu cầu của Chị Klà đúng thẩm quyền.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị K và anh Bùi Văn T tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vào ngày 28/12/2001 xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh T và Chị K chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và vợ chồng cũng chính thức sống ly thân từ năm 2014 đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình trạng hôn nhân của Chị K và anh T đã trầm trọng, đời sống chung thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của Chị K, xử cho Chị K được ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Con chung của Chị Trần Thị K và anh Bùi Văn T là Bùi Thị Mỹ H, sinh ngày 03/01/2004 hiện đang ở cùng anh T. Chị K có nguyện vọng là nhường con cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, cháu Hạnh cũng có đơn đề nghị xin được tiếp tục chung sống cùng bố. Vì vậy, để tránh sự xáo trộn cuộc sống của cháu Hạnh, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận nguyện vọng của cháu Hạnh và Chị K, giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Anh T không có ý kiến đề nghị gì về việc cấp dưỡng nuôi con chung, nên việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết. Khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị Trần Thị K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Trần Thị K được ly hôn anh Bùi Văn T.

2.Về con chung: Giao con chung Bùi Thị Mỹ H cho anh Bùi Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Khi nào đương sự có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án dận sự khác.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị K phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 (ba trăm ngàn)đồng Chị Kđã nộp tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0009151 ngày 08/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, Chị Trần Thị K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 25 tháng 10 năm 2019, anh Bùi Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về